Nghị định số 181 ngày 29.10.2004 và Nghị định số 84 ngày 25.5.2007 của Chính phủ có một số điều, khoản quy định có thể đã gây ra những xung đột pháp lý về thẩm quyền giải quyết khiếu nại, kiến nghị đối với các trường hợp đã được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (gọi tắt là “sổ đỏ”).

Nghị định số 181 ngày 29.10.2004Nghị định số 84 ngày 25.5.2007 của Chính phủ có một số điều, khoản quy định có thể đã gây ra những xung đột pháp lý về thẩm quyền giải quyết khiếu nại, kiến nghị đối với các trường hợp đã được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (gọi tắt là “sổ đỏ”).

Điều 42 khoản 3 Nghị định số 181 quy định: “Trường hợp đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người đang sử dụng đất ổn định được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất thì việc thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ được thực hiện khi có bản án hoặc quyết định của Tòa án nhân dân đã được thi hành…”. Theo đó, những khiếu kiện về QSDĐ mà người sử dụng đã được cấp giấy chứng nhận QSDĐ thuộc thẩm quyền của tòa án và chỉ có tòa án là cơ quan duy nhất có thẩm quyền giải quyết. Trước khi tòa án thụ lý, giải quyết, việc tranh chấp đó phải qua UBND cấp xã, phường hòa giải nhưng không thành.

Luật sư tư vấn luật Đất đai trực tuyến qua điện thoại gọi số:  

Điều 67 khoản 2, điểm a Nghị định số 84 quy định bãi bỏ Điều 42 khoản 3 Nghị định số 181 nêu trên. Tuy nhiên, Điều 21 Nghị định 84 lại có những nội dung quy định chưa thống nhất, thậm chí còn mâu thuẫn về thẩm quyền, cách thức giải quyết một số trường hợp tranh chấp mà người sử dụng đã được cấp giấy chứng nhận QSDĐ. Cụ thể, khoản 1 quy định cơ quan đã cấp giấy chứng nhận QSDĐ căn cứ văn bản kết luận của cơ quan thanh tra hoặc cơ quan điều tra, nếu thấy kết luận đó đúng thì có quyền ra quyết định thu hồi giấy chứng nhận đã cấp. Khoản 2 quy định trường hợp chính cơ quan đã cấp giấy chứng nhận QSDĐ phát hiện giấy chứng nhận đã cấp là trái pháp luật thì thông báo bằng văn bản để Thanh tra cùng cấp thẩm tra. Qua thẩm tra, xác định giấy  chứng nhận QSDĐ đã cấp trái pháp luật thì cơ quan đã cấp giấy chứng nhận ra quyết định thu hồi giấy chứng nhận đã cấp. Khoản 3 quy định, trường hợp công dân phát hiện giấy chứng nhận đã cấp sai pháp luật có quyền gửi văn bản kiến nghị đên cơ quan đã cấp. Cơ quan đã cấp giấy chứng nhận thực hiện biện pháp như khoản 2 nêu trên để giải quyết kiến nghị của công dân.

Như vậy, cả 3 trường hợp nêu trên đều thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan hành chính. Cụ thể là cơ quan đã cấp giấy chứng nhận QSDĐ trái pháp luật; trong đó, cơ quan giúp việc cho cơ quan đã cấp giấy là Thanh tra cùng cấp. Tuy nhiên, khoản 4 Điều 21 Nghị định 84 lại quy định các trường hợp thuộc quy định tại khoản 1, 2 và 3 nêu trên chỉ được thực hiện khi có bản án hoặc quyết định của Tòa án nhân dân đã có hiệu lực thi hành (tức là thuộc thẩm quyền của tòa án), trừ trường hợp theo quy định tại khoản 2 Điều 42 Nghị định số 181. Quy định như vậy vừa mâu thuẫn với quy định tại 3 khoản nêu trên, vừa không lôgích.

Từ khi có Nghị định 84 đến nay, nhận thức và vận dụng pháp luật để xác định thẩm quyền, cách thức giải quyết các tranh chấp về đất mà người sử dụng đã được cấp giấy chứng nhận QSDĐ ở mỗi nơi, mỗi vụ, việc mỗi khác. Tình trạng chuyển đơn vòng quanh giữa cơ quan hành chính với Tòa án làm cho người dân bức xúc, gây mất trật tự xã hội và làm giảm lòng tin của nhân dân đối với pháp luật. Thực tế, tranh chấp liên quan đến việc đã cấp giấy chứng nhận QSDĐ xảy ra nhiều, các cơ quan và công chức Nhà nước không nhận thức thống nhất nên không giải quyết đúng đắn được. Vì vậy, cơ quan có thẩm quyền cần nghiên cứu, xem xét vấn đề này để sớm có văn bản hướng dẫn hoặc bổ sung, sửa đổi quy định cho thống nhất, giúp cho việc vận dụng pháp luật chính xác và thống nhất trong cả nước.

SOURCE: BÁO NGƯỜI ĐẠI BIỂU NHÂN DÂN – NGUYỄN THANH BÌNH

Trích dẫn từ:http://www.nguoidaibieu.com.vn/

(MKLAW FIRM: Bài viết được đăng tải nhằm mục đích giáo dục, phổ biến, tuyên truyền pháp luật và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước không nhằm mục đích thương mại. Thông tin nêu trên chỉ có giá trị tham khảo và có thể một số thông tin pháp lý đã hết hiệu lực tại thời điểm  hiện tại vì vậy Quý khách khi đọc thông tin này cần tham khảo ý kiến luật sư, chuyên gia tư vấn trước khi áp dụng vào thực tế.)

—————————————————–

THAM KHẢO MỘT SỐ DỊCH VỤ TƯ VẤN LUẬT:

1. Tư vấn tách thửa đất đai;

2. Tư vấn pháp luật đất đai ;

3. Tư vấn cấp lại sổ đỏ bị mất ;

4. Tư vấn mua bán, chuyển nhượng đất đai ;

5. Tư vấn đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ;

6. Tư vấn cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do trúng đấu giá ;

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *