Thưa luật sư, em cần tư vấn về cách giải quyết vụ việc sau:

Trước năm 2003, Ông Đạt có 6000m2 đất thổ cư và đất vườn ao tại thôn V, Phường N, thị xã H. Năm 2004, ông Đạt viết giao kèo bán 400m2 (gồm 200m2 thổ cư và 200m2 vườn) cho vợ chồng ông Minh, bà Hà ở cùng thôn. Sau khi bán cho ông Minh, ông Đạt vẫn còn 200m2 ao. Sau khi thanh toán đủ số tiền mua bán, hai bên thỏa thuận chỉ làm thủ tục mua bán đất thổ cư (200m2), còn phần diện tích đất vườn thì chưa làm thủ tục sang nhượng. Bán xong đất, ông Đạt chuyển vào TP Hồ Chí Minh sinh sống. Năm 2008, biết tỉnh sẽ thu hồi đất, giải phóng mặt bằng để mở rộng đường, vợ chồng ông Minh đã làm lại giấy tờ mua bán nhà đất: theo đó, bên bán là vợ chồng ông Đạt, bên mua là anh Sỹ (con trai ông Minh) rồi ghi diện tích chuyển nhượng trong hợp đồng là 600m2 (tự ý sát nhập 200m2 đất ao của ông Đạt chưa sang nhượng vào diện tích đã mua). Tiếp đó, ông Minh đã giả mạo chữ kí của vợ chồng ông Đạt để kí vào giấy tờ chuyển nhượng với mục đích chiếm đoạt 200m2 ao của ông Đạt và biến 600m2 đất thành đất thổ cư để được đền bù theo giá đất thổ cư. Hành vi của ông Minh được anh Kiên, cán bộ địa chính phường giúp đỡ bằng việc xác nhận vào giấy chuyển nhượng khống do ông Minh lập. Chủ tịch UBND phường N kí tên, xác nhận đúng là “đất thổ cư, mua bán không có tranh chấp”. UBND thị xã H đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) 60m2 đất ao đất thổ cư đứng tên anh Sỹ. Với việc làm này, ông Minh đã chiếm đoạt gần 2 tỷ đồng tiền chênh lệch bồi thường giữa giá đất vườn, ao và giá đất thổ cư của nhà nước. Em muốn hỏi vụ việc này giải quyết thế nào?

Em xin trân trọng cảm ơn!

Câu hỏi được biên tập từ chuyên mục Tư vấn pháp luật hình sự của Nptlawyer.com ;.

Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua điện thoại:  

Trả lời:

 

Chào bạn! Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi đến chuyên mục tư vấn của chúng tôi. Chúng tôi xin được tư vấn cho bạn như sau:

Căn cứ pháp lý:

Bộ luật hình sự sửa đổi năm 2009

Nội dung tư vấn:

– Thứ nhất, hành vi của gia đình ông Minh, bà Hà và con trai Sỹ là hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản do khi biết tỉnh sẽ thu hồi đất, giải phóng mặt bằng để mở rộng đường, vợ chồng ông Minh đã làm lại giấy tờ mua bán nhà đất: theo đó, bên bán là vợ chồng ông Đạt, bên mua là anh Sỹ (con trai ông Minh) rồi ghi diện tích chuyển nhượng trong hợp đồng là 600m2 (tự ý sát nhập 200m2 đất ao của ông Đạt chưa sang nhượng vào diện tích đã mua) mà không được sự đồng ý của ông Minh và giả mạo chữ ký của ông Minh. Tại Điều 139 BLHS năm 1999   (sửa đổi, bổ sung năm 2009) quy định:

"1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ  sáu tháng đến ba năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

a) Có tổ chức;

b) Có tính chất chuyên nghiệp;

c) Tái phạm nguy hiểm;

d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;

e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;

g) Gây hậu quả nghiêm trọng.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;

b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:

a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;

b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm."

Do số tiền chiếm đoạt gần 2 tỷ đồng nên ông Minh có thể phải chịu hình phạt theo khoản 4 điều 139 BLHS.

Hành vi của bà Hà, anh Sỹ có thể coi là đồng phạm vì theo khoản 1 Điều 20 BLHS năm 2009 có quy định “Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm”.

Tiếp đó là hành vi của anh Kiên, cán bộ địa chính phường đã xác nhận vào giấy tờ chuyển nhượng khống do ông Minh lập thì cũng được coi là đồng phạm và có thể chịu hình phạt về tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai quy định tại điều 174 BLHS:

"1. Người nào lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trái pháp luật thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:

a) Đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm;

b) Đất có diện tích lớn hoặc có giá trị lớn;

c) Gây hậu quả nghiêm trọng.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

a) Có tổ chức;

b) Đất có diện tích rất lớn hoặc có giá trị rất lớn;

c) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười hai năm:

a) Đất có diện tích đặc biệt lớn hoặc có giá trị đặc biệt lớn;

b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm năm mươi triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm."

Do đó, trong trường hợp này nếu ông Đạt hoặc người nào phát hiện ra hành vi phạm pháp của ông Minh, bà Hà, anh Sỹ và anh Kiên có thể nộp đơn tố cáo tới cơ quan Công an để trình báo về vụ việc trên. Tùy vào mức độ của hành vi phạm tội thì ông Minh, bà Hà, anh Sỹ và anh Kiên có thể phải chịu trách nhiệm hình sự nặng hay nhẹ.

Trên đây là ý kiến tư vấn của chúng tôi về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo.

Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/ và có sự vướng ngại, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách hàng.

Trân trọng./.
Bộ phận tư vấn pháp luật hình sự.

 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *