Thưa luật sư, bố mẹ tôi có 8 người con và được hưởng tài sản của ông bà nội tôi từ trước năm 1960 gồm: 200 m2 đất thổ cư và một căn nhà cấp 4 trên đất. Năm 1980 mẹ tôi mất, đến năm 1984 bố tôi có lấy bà hai và sau đó có một người con, có mua một căn nhà trên đất 100 m2 cho mẹ con bà hai (nhưng mẹ con bà hai không sử dụng mà vẫn ở chung căn nhà của ông bà tôi để lại).

 Chị và các em gái của tôi đã xây dựng gia đình và có tài sản riêng, tôi công tác xa nhà. Năm 2001 bố tôi mất, không để lại di chúc, nay tôi thấy toàn bộ đất đai của gia đình (đất, nhà do ông bà tôi để lại và đất, nhà mua thêm) được lập sổ đỏ đứng tên bà hai vào năm 2003. Vây tôi xin tư vấn: Cách giải quyết và quyền được hưởng về tài sản của các thành vên trong gia đình thế nào cho đúng luật pháp ?

Xin chân thành cám ơn!

Câu hỏi được biên tập từ bộ phận Tư vấn luật dân sự của Nptlawyer.com ;.

Luật sư tư vấn luật dân sự gọi:

Trả lời:

 

Chào bạn, cảm ơn bạn đã gửi thắc mắc đến Nptlawyer.com ;, căn cứ vào những thông tin bạn cung cấp xin được tư vấn cho bạn như sau:

Cơ sở pháp lý:

Bộ luật Dân sự số 33/2005/QH11 của Quốc hội

Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP

Nội dung phân tích:

Thứ nhất, xét việc công nhận được cấp sổ đỏ của bà hai vào năm 2003

Thời điểm 2003, bà hai đã đứng tên toàn bộ phần đất của gia đình bạn. Vậy phải xác nhận lại trong hồ sơ địa chính có giấy tờ xác nhận thỏa thuận bố bạn cho bà hai đứng tên phần đất này, giấy tờ cam kết đại diện đứng tên trên đất của hai vợ chồng, thỏa thuận nhập tài sản riêng của bố bạn thành tài sản chung,… Nếu có những giấy tờ này thì có thể xác minh được đây là tài sản chung của bố bạn với bà hai hay là tài sản riêng của bà hai. Trường hợp là tài sản chung thì bạn được hưởng thừa kế phần tài sản của bố bạn. Căn cứ Luật hôn nhân và gia đình 2014, thì số tài sản của bố bạn và bà hai sẽ chia đôi, bạn có thể yêu cầu Tòa án chia thừa kế tài sản của bố bạn. 

Thứ hai, xét về thời hiệu khởi kiện phân chia di sản thừa kế:

Điều 645 Bộ luật dân sự 2005 quy định Thời hiệu khởi kiện về thừa kế:

Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là ba năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

Như vậy bố bạn mất từ năm 2001, trong thời hạn 10 năm, tức là đến năm 2011 bạn có quyền yêu cầu tòa án giải quyết vấn đề chia di sản thừa kế nhưng bạn đã không thực hiện. Đến nay bạn đã hết quyền yêu cầu tòa án giải quyết việc phân chia di sản.

Tuy vậy, theo quy định của Quyết định 02/2004/NQ-HĐTP của Thẩm phán TAND tối cao quy định về việc hết thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế như sau:

2.4. Không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế

a) Trường hợp trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết và cần phân biệt như sau:

a.1. Trường hợp có di chúc mà các đồng thừa kế không có tranh chấp và thoả thuận việc chia tài sản sẽ được thực hiện theo di chúc khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo di chúc.

a.2. Trường hợp không có di chúc mà các đồng thừa kế thảo thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo thoả thuận của họ.

a.3. Trường hợp không có di chúc và các đồng thừa kế không có thoả thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo quy định của pháp luật về chia tài sản chung.

b) Trường hợp người chết để lại di sản cho các thừa kế nhưng các thừa kế không trực tiếp quản lý, sử dụng mà di sản đó đang do người khác chiếm hữu bất hợp pháp hoặc thuê, mượn, quản lý theo uỷ quyền… thì các thừa kế có quyền khởi kiện người khác đó để đòi lại di sản.

Như vậy, trường hợp của bạn là không có di chúc; do vậy bạn có thể khởi kiện lên tòa án yêu cầu giải quyết việc chia tài sản chung (có sự đồng ý của các đồng thừa kế khác). Khi đó, bạn, chị và các em có thể thỏa thuận phần mỗi người được hưởng hoặc sẽ chia di sản theo quy định của pháp luật về chia tài sản chung.

Việc chia thừa kế theo quy định của pháp luật, quy định tại Bộ luật dân sự 2005:

"Ðiều 676. Người thừa kế theo pháp luật

  1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

    a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

    b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;

    c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.

  2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
  3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản".

Trường hợp nếu bạn chứng minh được số di sản đó do bố bạn muốn để lại cho chị em bạn (vì ông đã mua cho mẹ con bà hai mảnh đất riêng) thì có thể khởi kiện lên tòa án việc chiếm hữu bất hợp pháp của bà hai để đòi lại toàn bộ số di sản.

Trên đây là ý kiến tư vấn của chúng tôi về vấn đề mà bạn đang quan tâm. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra bản tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo.

Trường hợp trong bản tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong bản tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề, rất mong nhận được phản ánh của quý khách tới địa chỉ email: npttrinhlaw@gmail.com hoặc tổng đài tư vấn trực tuyến: . Chúng tôi sẵn sàng giải đáp.

Trân trọng./.

BỘ PHẬN TƯ VẤN LUẬT DÂN SỰ.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *