Xin chào các vị luật sư của Nptlawyer.com ;, tôi muốn được các luật sư tư vấn về đất đai có tranh chấp, và quyền thừa kế. Gia đình tôi có 1 mảnh đất ( ngày trước là ao) được ông nội cho sử dụng từ năm 1981, sau 1 thời gian thì ông nội tôi có bảo cho nhà chú tôi 1 nửa, 2 gia đình sử dụng từ những năm 1981, trước đó đất này do ông tôi sử dụng từ trước, năm 1993 do trình độ còn hạn chế nên gia đình tôi và chú tôi có nhầm lẫn, nghĩ rằng miếng đất đó đã vào trong sổ đỏ nhà chú tôi nên 2 nhà yên tâm sử dụng.

Năm 1995 gia đình tôi có xây dựng 1 ngôi nhà nhỏ nằm trong mảnh đất đó để tiện việc chăm sóc và trông ao thả cá. Năm 2002 gia đình 2 nhà bàn kế hoạch lấp ao để xây nhà thì chính quyền địa phương ngăn cản với lý do là đất chưa vào sổ đỏ, gia đình tôi đã làm đơn xin cấp sổ đỏ cho mảnh đất này vì gia đình tôi sử dụng từ năm 1981 tới nay, nhưng dưới chính quyền địa phương làm khó gia đình, do trình độ học vấn và hiểu biết pháp luật còn hạn chế nên gia đình tôi không tiếp tục làm đơn tiếp. Tới năm 2008 ông nội tôi ra bảo bố tôi là cho nhà tôi tất cả mảnh đất đó, năm đó địa chính huyện xuống đo lại sổ đỏ toàn xã, mảnh đất đó cũng được đo đạc và đứng tên gia đình tôi, bố tôi là người trược tiếp ký tên xác nhận. Năm 2011 ông nội tôi qua đời, 2012 gia đình nhà bà nội tôi gồm các chú, cô ruột của tôi đã ra lấp cái ao đó mà không xin phép gia đình tôi, tôi có hỏi thì mọi người bảo cái này thừa kế của ông nội để lại, trong khi lúc ông tôi qua đời, tôi và bố tôi không có được xem bản thừa kế nào cả. Tháng 7/2015 gia đình trong nhà nội tôi lại ra thuê máy cẩu phá cái nhà nhỏ của nhà tôi. Do bố mẹ tôi không có nhà nên không ngăn chặn kịp thời. Tôi muốn hỏi các vị luật sư như trong trường hợp gia đình tôi như vậy, theo luật thừa kế, mảnh đất đó có được tính vào tài sản thừa kế của ông tôi hay không, và hướng đi để gia đình tôi làm việc với cơ quan pháp luật, cũng như dịch vụ hỗ trợ pháp luật bên Đoàn Luật Sư. Xin cảm ơn!

Người gửi: T.V.P

Câu hỏi được biên tập từ Chuyên mục Tư vấn Luật dân sự Nptlawyer.com ;

Luật sư tư vấn Luật dân sự gọi: 

Trả lời:

Chào bạn! Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi về cho chúng tôi. Đối với vấn đề bạn đang thắc mắc chúng tôi xin được tư vấn như sau:

 

1. Cơ sở pháp lý

Bộ luật Dân sự số 33/2005/QH11 của Quốc hội

Luật đất đai số 45/2013/QH13 của Quốc hội

2. Nội dung tư vấn

Theo quy định tại Điều 467 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định:

"Điều 467. Tặng cho bất động sản

1. Tặng cho bất động sản phải được lập thành văn bản có công chứng, chứng thực hoặc phải đăng ký, nếu theo quy định của pháp luật bất động sản phải đăng ký quyền sở hữu.

2. Hợp đồng tặng cho bất động sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký; nếu bất động sản không phải đăng ký quyền sở hữu thì hợp đồng tặng cho có hiệu lực kể từ thời điểm chuyển giao tài sản"

Theo như quy định trên, việc tặng cho bất động sản phải được lập thành văn bản có công chứng, chứng thực hoặc phải đăng ký, đây là điều kiện bắt buộc để có hiệu lực của hợp đồng tặng cho tài sản. Tuy nhiên, theo như phần trình bày của bạn, ông nội bạn có tặng cho quyền sử dụng mảnh đất trên cho bố bạn, nhưng việc tặng cho tài sản này lại chỉ được thực hiện qua lời nói, mà không lập thành văn bản. Như vậy, giao dịch này đã không tuân thủ quy định pháp luật về hình thức của hợp đồng, theo Điều 17, đây là một trong những căn cứ làm cho hợp đồng dân sự vô hiệu. Theo đó, tại khoản 1 Điều 137 Bộ luật Dân sự 2005 quy định về hậu quả của hợp đồng dân sự vô hiệu là "1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập." Như vậy, do bố bạn và ông nội không lập việc tặng cho quyền sử dụng đất thành văn bản và được công chứng, chứng thực, nên việc tặng cho này không có hiệu lực pháp luật. Theo đó, quyền sử dụng đất vẫn thuộc về ông nội bạn.

Như vậy, đến năm 2011 ông nội bạn mất, nhưng bạn không trình bày cụ thể di chúc ông nội bạn để lại như thế nào. Bởi nếu di chúc của ông nội bạn là hợp pháp, thì những người thừa kế có trách nhiệm phải thực hiện di nguyện của ông. Còn nếu di chúc ông để lại không hợp pháp vì không thuộc các trường hợp quy định tại Điều 652 Bộ luật dân sự, như lập di chúc miệng nhưng không đủ 2 người chứng kiến hoặc sau khi chứng kiến nhưng không ghi chép lại và đi công chứng, chứng thực…  Nếu là di chúc không hợp pháp, lúc này di sản ông nội bạn để lại sẽ tiến hành chia theo pháp luật. Theo đó, với mỗi người ở hàng thừa kế thứ nhất thì di sản sẽ chia đều mỗi người một phần, trong đó có bố bạn. Việc tháo dỡ ngôi nhà của bạn và bồi lấp đất để xây nhà ở mà không có sự đồng ý của gia đình bạn của những người kia là không đúng quy định của pháp luật. Hơn nữa, theo quy định tại Điều 681 Bộ luật Dân sự 2005 thì:

"Điều 681. Họp mặt những người thừa kế

1. Sau khi có thông báo về việc mở thừa kế hoặc di chúc được công bố, những người thừa kế có thể họp mặt để thoả thuận những việc sau đây:

a) Cử người quản lý di sản, người phân chia di sản, xác định quyền, nghĩa vụ của những người này, nếu người để lại di sản không chỉ định trong di chúc;

b) Cách thức phân chia di sản.

2. Mọi thoả thuận của những người thừa kế phải được lập thành văn bản."

Như vậy, trước khi tiến hành phân chia di sản thì những người thừa kế phải họp mặt nhau để tiến hành phân chia di sản. Trường hợp bà nội và các cô chú trong gia đình bạn tiến hành làm những việc trên mà không có ý kiến của tất cả mọi người là không đúng quy định của pháp luật. Theo đó, lúc này, bạn có quyền được yêu cầu cả gia đình họp mặt lại với nhau và xem nội dung bản di chúc mà ông nội bạn để lại để biết nội dung di chúc thế nào, di chúc có hợp pháp hay không. Nếu di chúc không hợp pháp thì lúc này sẽ tiến hành phân chia di sản theo quy định của pháp luật, và bố bạn cũng được hưởng 1 phần. Nếu những người kia không đồng ý thì gia đình bạn có thể yêu cầu UBND cấp xã tham gia hòa giải giúp các bên. Nếu có hòa giải của UBND xã nơi có đất mà vẫn không giải quyết được thì gia đình bạn có thể làm đơn khởi kiện lên Tòa án nhân dân cấp huyện nơi có bất động sản để giải quyết.

Trên đây là ý kiến tư vấn của chúng tôi về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/ và có sự vướng ngại, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách hàng qua email npttrinhlaw@gmail.com hoặc qua tổng đài . Chúng tôi sẳn sàng giải đáp.

Trân trọng./.

Bộ phận Tư vấn Luật dân sự

 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *