Kính chào luật sư, mong luật sư tư vấn cho tôi vấn đề sau :Chị tôi đã ly hôn anh rể và đưa đơn ra tòa đã hơn 2 năm mà tòa án huyện cứ mời ra kí hết giấy tờ này đến giấy tờ khác mà không giải quyết triệt để. Tôi rất bức xúc vì anh rể tôi ôm hết ruộng đất làm ăn mà không cho chị tôi làm phần nào để nuôi 2 con ăn học. Trong khi anh rể tôi không nuôi cũng không phụ cấp cho đứa nào.

Trước tòa anh rể tôi nói chị tôi phải tách hộ khẩu của chị cùng 2 con thì mới chịu chia tài sản để sau này 2 cháu tôi không còn tranh chấp tài sản. Bản thân tôi nghĩ việc tách hộ khẩu không phải là trách nhiệm của chị tôi và cũng không liên quan đến việc chia tài sản khi li hôn. Nếu muốn anh rể tôi phải tự đi tách chứ sao lại nói với tòa là chị tôi không tách 3 mẹ con ra khỏi hộ khẩu được thì không chia tài sản? Chờ quá lâu chị tôi không có nguồn vốn làm ăn để nuôi 2 con nên chị tôi quyết định rút hồ sơ đưa lên tỉnh nhờ giải quyết thì vị tòa không cho bảo là nếu rút hồ sơ thì chị tôi mất tất cả của cải không được chia. Kì kèo mãi thì vị tòa nói là cô về làm đơn mới cho rút hồ sơ, chị tôi cũng làm theo yêu cầu thì tòa hết lần này đến lần khác bảo đơn chưa đạt yêu cầu, cứ mỗi lần như vậy là hẹn 20 ngày. Chị tôi đã đồng ý với anh rể là chia đều tài sản, 2 đứa con chị tôi nuôi và tòa án cũng đồng ý như vậy mà anh rể tôi không chịu vì lấy lí do là chưa tách hộ khẩu 3 mẹ con. Nếu tách được thì không biết anh rể lại lấy lí do gì nữa vì đã nhiều lần đưa ra nhiều lí do khác nhau mà chị tôi phải làm theo nhưng không đâu vào đâu cả. Tôi nghĩ trong chuyện này giữa anh rể tôi và tòa nhất định có tiêu cực, vì chị tôi là người trình độ văn hóa thấp và chủ yếu làm nghề nông cho nên mới có sự việc như trên. 

Trước hoàn cảnh như thế này tôi không biết phải làm sao? Tôi định viết thư gửi về tất cả đài truyền hình Việt Nam để được giúp đỡ có được không? 

Xin luật sư cho tôi lời khuyên! Kính mong luật sư giúp đỡ. Tôi xin chân thành cảm ơn!

Người gửi: L.A

Câu hỏi được biên tập từ chuyên mục Tư vấn pháp luật hôn nhân của Nptlawyer.com ;.

Luật sư tư vấn trực tiếp về pháp luật hôn nhân, gọi:

Trả lời:

 

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng Nptlawyer.com ;, đối với thắc mắc của bạn, chúng tôi xin được giải đáp và tư vấn như sau:

Cơ sở pháp lý:

Luật hôn nhân và gia đình 2014. 

Luật cư trú 2006 sửa đổi, bổ sung 2013

Luật tố cáo 2011

Nội dung tư vấn: 

Về việc chia tài sản sau khi ly hôn, Luật hôn nhân và gia đình 2014 có quy định:

"Điều 59. Nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn

1. Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thì việc giải quyết tài sản do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc của hai vợ chồng, Tòa án giải quyết theo quy định tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này.

Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì việc giải quyết tài sản khi ly hôn được áp dụng theo thỏa thuận đó; nếu thỏa thuận không đầy đủ, rõ ràng thì áp dụng quy định tương ứng tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này để giải quyết.

2. Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:

a) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;

b) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;

c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;

d) Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.

3. Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch.

4. Tài sản riêng của vợ, chồng thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung theo quy định của Luật này.

Trong trường hợp có sự sáp nhập, trộn lẫn giữa tài sản riêng với tài sản chung mà vợ, chồng có yêu cầu về chia tài sản thì được thanh toán phần giá trị tài sản của mình đóng góp vào khối tài sản đó, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.

5. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

6. Tòa án nhân dân tối cao chủ trì phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp hướng dẫn Điều này"

Theo đó, có thể hiểu trong trường hợp ruộng đất thuộc khối tài sản chung của hai vợ chồng, tức tài sản hình thành sau khi kết hôn hay có thỏa thuận khác, chị của bạn hoàn toàn có quyền yêu cầu người chồng chia đôi tài sản, thậm chí là chia phần hơn nếu xét thỏa mãn các điều kiện ở khoản 2 điều 59 nêu trên. Còn trong trường hợp ruộng đất thuộc khối tài sản riêng của người chồng, tức tài sản hình thành trước khi kết hôn hoặc có thỏa thuận khác, chị của bạn vẫn có quyền yêu cầu người chồng chia một phần tài sản để nuôi dưỡng hai con vẫn còn đang đi học, vì căn cứ khoản 5 điều 59 nêu trên, pháp luật "bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình."

Bên cạnh đó, ngoài phần tài sản cần phải chia cho chị của bạn, người chồng còn cần chu cấp một khoản cấp dưỡng hàng tháng cho các con nếu không trực tiếp nuôi dưỡng chúng, căn cứ vào quy định tại Luật hôn nhân và gia đình 2014 như sau:

"Điều 82. Nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn

1. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi.

2. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.

3. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó."

Về vấn đề người chồng yêu cầu chị của bạn và hai con tách khẩu thì mới đồng ý chia tài sản, Luật cư trú 2006 sửa đổi bổ sung 2013 có quy định:

"Điều 3. Quyền tự do cư trú của công dân

Công dân có quyền tự do cư trú theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Công dân có đủ điều kiện đăng ký thường trú, tạm trú thì có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký thường trú, tạm trú.

Quyền tự do cư trú của công dân chỉ bị hạn chế theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định."

Theo đó, bản án của tòa tuyên khi ly hôn cũng chỉ nói về vấn đề chấm dứt quan hệ hôn nhân chứ không đề cập đến vấn đề lưu trú của các bên sau khi ly hôn. Vì vậy như đã phân tích ở trên, nếu ruộng đất thuộc khối tài sản chung thì chị của bạn sẽ vẫn được chia tài sản mà không phải đáp ứng nhu cầu nào của người chồng. Trường hợp ruộng đất thuộc khối tài sản riêng của người chồng thì hai bên có thể tự thỏa thuận để có thể thỏa mãn tối đa mục đích của các bên.

Về vấn đề tòa án địa phương có thể có tiêu cực trong xét xử, Luật tố cáo 2011 có quy định:

"Điều 14. Thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cán bộ, công chức trong cơ quan khác của Nhà nước

1. Chánh án Tòa án nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân các cấp có thẩm quyền:

a) Giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của công chức do mình quản lý trực tiếp;

b) Giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của Chánh án, Phó Chánh án Tòa án, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát cấp dưới."

Do đó, nếu xét thấy tòa án địa phương có hành vi vi phạm pháp luật trong xét xử, bạn có thể làm đơn tố cáo gửi đến Chánh án tòa án nhân dân cùng cấp hoặc các cơ quan có thẩm quyền khác để được giải quyết thỏa đáng và nhanh chóng nhất có thể.

Trên đây là ý kiến tư vấn của chúng tôi về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo.

Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/ và có sự vướng ngại, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách hàng.

Trân trọng./.

Bộ phận tư vấn pháp luật hôn nhân.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *