Xin chào luật sư! Tôi có thắc mắc một số điều kính nhờ luật sư tư vấn giúp. Ông bà nội tôi có 5 người con: bác 2, bác 4, cha tôi là con thứ 7 (trai út), cô 8, cô 9. Hai bác: bác 2 va bác 4 đã được ông nội bà nội chia phần đất đai đã lâu rồi, còn lại cha tôi do ở chung nhà với ông nội bà nội nên chưa chia. Đến khi bà nội mất( 6 năm) thì ông nội có sang nhượng lại toàn bộ đất đai do ông nội đứng tên lại cho cha tôi nay đã được 3 năm ( hiện tại ông nội vẫn ở chung voi gia dinh cha me tôi) . Thời gian: tháng 5/2015 cha tôi có bán đất cho người khác và giấy tờ sổ đỏ đã sang nhựơng xong thi 2 bà cô 8,cô 9 lại làm đơn thưa cha tôi để chia lại đất. vậy cho tôi hỏi 2 bà cô của tôi có thưa được cha tôi không ạ? Và có ảnh hưởng gì với 5 công đất còn lai không?

Tôi xin chân thành cảm ơn

Người gửi: H.H

Câu hỏi được biên tập từ Chuyên mục Tư vấn pháp luật đất đai  của Nptlawyer.com ;.

Luật sư tư vấn pháp luật  d ân sự  về thừa kế tài sản:  

Trả lời:

Chào bạn! Cảm ơn bạn đã tin tưởng và lựa chọn Nptlawyer.com ;. Về vấn đề của bạn, chúng tôi xin giải đáp như sau:

Căn cứ pháp lý

Bộ luật dân sự năm 2005 

Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 

Nội dung phân tích

Khoản 1 Điều 33 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định như sau:

Điều 33. Tài sản chung của vợ chồng

1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.

Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.”

Theo đó, nếu mảnh đất mà ông bạn sang tên cho bố bạn là tài sản có trong thời kỳ hôn nhân giữa ông và bà nội của bạn mà không phải do ông được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng thì đó là tài sản chung của ông bà nội của bạn. Khi đó, việc ông bạn sang tên hết mảnh đất đó cho bố bạn là không đúng bởi theo quy định tại khoản 2 Điều 219 Bộ luật dân sự năm 2005 thì cả ông và bà đều có một nửa quyền sở hữu đối với mảnh đất đó.

Do bà bạn đã mất nên một nửa quyền sở hữu đối với mảnh đất đó sẽ trở thành di sản và sẽ được phân chia theo di chúc trong trường hợp bà của bạn có để lại di chúc hoặc phân chia theo quy định của pháp luật trong trường hợp bà của bạn không để lại di chúc.

Điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định như sau:

“Điều 676. Người thừa kế theo pháp luật  

1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;

c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.

2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.

3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.”

Theo đó, trong trường hợp bà của bạn không để lại di chúc thì phần di sản mà bà bạn để lại sẽ được chia đều thành 6 phần cho ông của bạn, bác 2, bác 4, bố của bạn, cô 8 và cô 9. Như vậy, ông của bạn chỉ có quyền sở hữu đối với ½ + (1/2 : 6)= 7/12 diện tích mảnh đất đó, phần diện tích đất còn lại thuộc sở hữu của 2 bác, bố bạn và 2 cô. Trong trường hợp ông của bạn muốn sang tên cho bố của bạn toàn bộ mảnh đất thì cần phải có sự đồng ý của 2 bác và 2 cô của bạn.

Tuy nhiên, Điều 645 Bộ luật dân sự năm 2005 cũng quy định:

Điều 645. Thời hiệu khởi kiện về thừa kế  

Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là ba năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.”

Như vậy, thời hiệu để khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế là 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế. Theo quy định tại khoản 1 Điều 633 Bộ luật dân sự năm 2005 thì thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết nên nếu tính từ thời điểm bà của bạn chết đến giờ đã hơn 10 năm thì những người có quyền hưởng di sản bao gồm cả 2 cô của bạn sẽ không có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án chia di sản thừa kế nữa.

Trong trường hợp thời hiệu để khởi kiện yêu cầu chia di sản vẫn còn thì 2 cô cũng như 2 bác của bạn hoàn toàn có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án chia di sản thừa kế. Khi đó, Tòa án sẽ xem xét và giải quyết yêu cầu chia di sản.

Trên đây là thư tư vấn của chúng tôi về vấn đề của bạn.Chúng tôi hy vọng rằng ý kiến của chúng tôi đã phần nào làm sáng tỏ những vướng mắc của bạn. Trên từng vấn đề cụ thể, nếu bạn cần tham khảo thêm ý kiến chuyên môn của chúng tôi, xin hãy liên hệ trực tiếp với chúng tôi qua email lienhe@Nptlawyer.com.vn hoặc qua đường dây nóng (24h/7)

Trân trọng ./.

BỘ PHẬN TƯ VẤN LUẬT – Nptlawyer.com ;

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *