Kính chào luật sư! Thưa luật sư trước năm 2011 ( Năm 1994), chú em có mua một thửa ruộng thuộc địa phận của huyện Tủa Chùa nơi chú sinh sống.

Nhưng vì trước đó người dân không biết chữ nên chỉ hợp đồng băng miệng. Đến năm 2011 vùng đất đó được cắt thuộc địa phận Tuần Giáo nhưng ruộng thì chú vẫn làm. Năm nay, các anh khơ Mú lại xâm chiếm và họ bảo là ruộng của họ vậy có đúng không? Nếu họ có sổ đỏ về khu đất đó khi chưa được ý kiến của chú ấy thì làm thế nào? Rất mong anh hoặc chị tư vấn giúp em.

Em xin cảm ơn!

Người gửi: P.H

Câu hỏi được biên tập từ chuyên mục tư vấn luật đất đai của Nptlawyer.com ;.

Luật sư tư vấn luật đất đai gọi:

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã đặt câu hỏi cho chúng tôi. Với câu hỏi của bạn, chúng tôi xin được tư vấn như sau:

Cơ sở pháp lý:

Luật Đất đai 2013

Nghị định số 43/2014/NĐ-CP của Chính phủ : Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai

Nội dung tư vấn:

Theo như nội dung thư mà bạn trình bày, chú bạn sử dụng diện tích đất này đã từ rất lâu tuy nhiên lại chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Hiện nay, các anh khơ Mú lại xâm chiếm và họ bảo là ruộng của họ . Trong trường hợp này, việc làm của những người Khơ mú kia là đúng hay của chú bạn là đúng thì phải căn cứ vào các bằng chứng mà hai bên đưa ra để chứng minh bên nào mới là bên có quyền sử dụng đất. Theo như nội dung thư, chú bạn đã sử dụng mảnh đất này ổn định, lâu dài từ năm 1994 vì thế, chú bạn có thể xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của Luật Đất đai 2013:

"Điều 101. Cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất mà không có giấy tờ về quyền sử dụng đất
1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành mà không có các giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này, có hộ khẩu thường trú tại địa phương và trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối tại vùng có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn, vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn, nay được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất xác nhận là người đã sử dụng đất ổn định, không có tranh chấp thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.
2. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này nhưng đất đã được sử dụng ổn định từ trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 và không vi phạm pháp luật về đất đai, nay được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị, quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt đối với nơi đã có quy hoạch thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.
3. Chính phủ quy định chi tiết Điều này."

Tuy nhiên, vấn đề cần giải quyết ở đây là quyền sử dụng đất này hiện đang có tranh chấp vì thế không thể xin xác nhận của ủy ban nhân dân xã để xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Trong trường hợp này, để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, chú bạn cần giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất với những người Khơ mú. Việc giải quyết tranh chấp có thể thông qua con đường thương lượng, hòa giải tại ủy ban nhân dân cấp xã hoặc có thể thông qua tòa án. Sau khi tranh chấp được giải quyết thì chú bạn có thể được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vì đã đáp ứng các điều kiện mà quy định trên yêu cầu. Việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong trường hợp này được quy định như sau theo Nghị định 43/2014/NĐ-CP:

"Việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (công nhận quyền sử dụng đất) cho hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định từ trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 mà không có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật Đất đai, Điều 18 của Nghị định này và không thuộc trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều 101 của Luật Đất đai, Điều 23 của Nghị định này được thực hiện theo quy định như sau:

1. Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất có nhà ở, công trình xây dựng khác từ trước ngày 15 tháng 10 năm 1993; nay được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất xác nhận không có tranh chấp sử dụng đất; việc sử dụng đất tại thời điểm nộp hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là phù hợp với quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị hoặc quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn hoặc quy hoạch xây dựng nông thôn mới đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt (sau đây gọi chung là quy hoạch) hoặc không phù hợp với quy hoạch nhưng đã sử dụng đất từ trước thời điểm phê duyệt quy hoạch hoặc sử dụng đất tại nơi chưa có quy hoạch thì được công nhận quyền sử dụng đất như sau:

a) Đối với thửa đất có nhà ở mà diện tích thửa đất nhỏ hơn hoặc bằng hạn mức công nhận đất ở quy định tại Khoản 4 Điều 103 của Luật Đất đai (sau đây gọi là hạn mức công nhận đất ở) thì toàn bộ diện tích thửa đất được công nhận là đất ở.

Trường hợp thửa đất có nhà ở mà diện tích thửa đất lớn hơn hạn mức công nhận đất ở thì diện tích đất ở được công nhận bằng hạn mức công nhận đất ở; trường hợp diện tích đất xây dựng nhà ở và các công trình phục vụ đời sống lớn hơn hạn mức công nhận đất ở thì công nhận diện tích đất ở theo diện tích thực tế đã xây dựng nhà ở và các công trình phục vụ đời sống đó;

b) Đối với thửa đất có công trình xây dựng để sản xuất, thương mại, dịch vụ phi nông nghiệp thì công nhận đất cơ sở sản xuất phi nông nghiệp, đất thương mại, dịch vụ theo diện tích thực tế đã xây dựng công trình đó; hình thức sử dụng đất được công nhận như hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất, thời hạn sử dụng đất là ổn định lâu dài;

c) Đối với thửa đất có cả nhà ở và công trình xây dựng để sản xuất, thương mại, dịch vụ phi nông nghiệp mà diện tích thửa đất lớn hơn hạn mức công nhận đất ở thì diện tích đất ở được công nhận theo quy định tại Điểm a Khoản này; phần diện tích còn lại đã xây dựng công trình sản xuất, thương mại, dịch vụ phi nông nghiệp thì được công nhận theo quy định tại Điểm b Khoản này;

d) Đối với phần diện tích đất còn lại sau khi đã được xác định theo quy định tại các Điểm a, b và c Khoản này thì được xác định là đất nông nghiệp và được công nhận theo quy định tại Khoản 5 Điều này."

Trong trường hợp những người Khơ mú được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà chú bạn có các bằng chứng cho rằng việc cấp giấy đó là không đúng quy định của pháp luật, chú bạn có thể giải quyết như sau:

"1.Người sử dụng đất, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến sử dụng đất có quyền khiếu nại, khởi kiện quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính về quản lý đất đai.

2. Trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính về đất đai thực hiện theo quy định của pháp luật về khiếu nại. Trình tự, thủ tục giải quyết khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính về đất đai thực hiện theo quy định của pháp luật về tố tụng hành chính."

Theo đó, chú bạn có thể khiếu nại hoặc khởi kiện quyết định cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp cho chính mình.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi với yêu cầu của bạn.

Trân trọng./.

Bộ phận tư vấn luật đất đai.

 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *