Các nghị quyết quan trọng của nhà nước là các quyết định ở tầm vĩ mô về những vấn đề hệ trọng của đất nước, của quốc gia liên quan đến chính trị, kinh tế, xã hội và từng người dân. Vì vậy, ở các nước dân chủ và pháp quyền, các quyết định quan trọng của đất nước trước khi thông qua thường được dư luận quan tâm, được bàn cãi, tranh luận gay gắt giữa các phe phái và tầng lớp dân cư trong xã hội.

1.  Đặc biệt là các cuộc tranh luận quyết liệt giữa các nghị sĩ thuộc các đảng phái khác nhau trong nghị trường. Các cuộc bàn cãi, phản biện nhau một cách gay gắt ấy, dù vì mục đích gì thì cũng có một ưu điểm không thể phủ nhận là vấn đề cần quyết định được công khai hoá trước dư luận xã hội, các khía cạnh khác nhau được phân tích mổ xẻ dưới nhiều góc độ, làm cho khi quyết định cũng như khi thực hiện quyết định đó có rất nhiều thông tin trí tuệ để tham khảo. Vì thế, các nhà nước dân chủ, pháp quyền tư sản rất coi trọng quy trình, thủ tục thông qua các quyết định nhà nước với nội dung chặt chẽ và khó khăn nhưng dân chủ, công khai trong xây dựng cũng như ban hành và thực hiện quyết định. ở nước ta, các quyết định nhà nước – nhất là các quyết định mang tầm cỡ quốc gia với vai trò lãnh đạo – thường do Ban chấp hành trung ương Đảng hoặc Bộ Chính trị quyết định trước. Vì thế, khi cơ quan có thẩm quyền trình ra Quốc hội thì vấn đề thường được quyết định thông qua nhanh chóng do sự tin tưởng và cả sự “ỷ lại” vào Đảng và nếu là đảng viên còn do phải chấp hành Nghị quyết của Đảng. Ưu điểm là quyết định được thông qua nhanh chóng. Nhưng nhược điểm cơ bản là tính dân chủ của việc xây dựng cũng như thông qua và thực hiện quyết định bị hạn chế. Quy trình xây dựng và thông qua quyết định quá đơn giản theo tư duy càng nhanh, càng gọn thì càng tốt, tiết kiệm thời gian và tiền bạc. Do thiếu sự tranh luận, phản biện tại nghị trường, thu hút trí tuệ của các chuyên gia, các nhà khoa học còn nhiều hạn chế, nên vấn đề cần phải quyết định thông qua ít được phân tích, mổ xẻ, xem xét dưới nhiều góc độ và phương diện khác nhau, tính công khai của quyết định bị ảnh hưởng. Điều đó làm cho quá trình xây dựng, quá trình thông qua quyết định và sau này là thực hiện quyết định có rất ít nguồn thông tin tham khảo, hàm lượng chất xám kết tinh trong các quyết định không nhiều. Gần đây, một số quyết định nhà nước có dân chủ hơn, nhưng so với yêu cầu và mong mỏi của dư luận xã hội, kể cả đại biểu Quốc hội, vẫn chưa đáp ứng được, nên cần phải tiếp tục dân chủ hoá hơn nữa.

>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua điện thoại gọi:  –

 

2. Các quyết định nhà nước quan trọng, trừ quyết định bí mật quốc gia, rất cần phải được xây dựng và thông qua theo một quy trình dân chủ, thu hút được nhiều trí tuệ của dân chúng. Để làm được điều đó, trước hết, do đặc thù tất yếu lịch sử và khách quan ở nước ta – do một Đảng lãnh đạo – nên phải đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.

Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước là kỹ nghệ cầm quyền (bao gồm 2 yếu tố: kỹ thuật và nghệ thuật cầm quyền). Kỹ nghệ cầm quyền là hệ thống các phương thức, phương pháp (là yếu tố kỹ thuật) lãnh đạo nhà nước giàu tính sáng tạo, đem lại hiệu quả cao (là yếu tố nghệ thuật). Vì thế, kỹ thuật cầm quyền của đảng phái chính trị không phải là yếu tố bất di bất dịch mà phải thường xuyên đổi mới, mang tính sáng tạo, thích ứng với từng thời kỳ. Có thể nói, các đảng phái chính trị tư sản có kỹ nghệ cầm quyền luôn luôn thay đổi, thích ứng với thời cuộc. Ngược lại, các đảng cộng sản cầm quyền ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, kỹ nghệ cầm quyền ít có sự đổi mới để phù hợp với hoàn cảnh. Đó cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội hiện thực. Bởi vì, kỹ nghệ cầm quyền phù hợp có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc giữ vững quyền lãnh đạo của đảng đối với nhà nước (giữ vững địa vị cầm quyền của một đảng) nhờ phương thức và phương pháp chuyển tải nội dung lãnh đạo của đảng đối với nhà nước giàu tính sáng tạo, đem lại hiệu quả cao. Kỹ nghệ cầm quyền phù hợp là nhân tố làm cho đảng mạnh và nhà nước mạnh; đảng thực hành được quyền lãnh đạo của mình đối với nhà nước, nhưng phát huy được vai trò của nhà nước.

Ngày nay, việc xây dựng đảng, trong đó có đổi mới phương thức lãnh đạo của đảng, diễn ra trong điều kiện khác hẳn trước đây. ở nước ta, với đường lối đổi mới, nền kinh tế nước ta đã và đang chuyển từ kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Mô hình và quan niệm về chủ nghĩa xã hội đã có nhận thức mới. Bộ máy nhà nước được cải cách đổi mới theo định hướng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Trong khi tình hình thế giới biến đổi nhanh chóng và phức tạp, toàn cầu hoá kinh tế là xu thế khách quan, vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực. Nước ta đã mở rộng quan hệ với hầu hết các nước trên thế giới. Trong điều kiện đó, một mặt đòi hỏi Đảng ta phải kiên định, năng động, nhạy bén, có sức đề kháng cao trước những tiêu cực của nền kinh tế thị trường, mặt khác, đòi hỏi Đảng phải đổi mới nhận thức; thay đổi phương thức lãnh đạo, nhất là phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước một cách căn bản, khác với những gì đã trở thành thói quen trước đây. Đảng phải vươn lên ngang tầm với một Đảng cầm quyền về trí tuệ, về tư tưởng, về phẩm chất năng lực lãnh đạo và hoạt động thực tiễn. Có như vậy mới có kỹ nghệ cầm quyền phù hợp và thích ứng của thời cuộc, phát huy được trí tuệ của đông đảo các tầng lớp nhân dân vào quyết định các vấn đề trọng đại của đất nước. Để đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong việc ban hành các quyết định quan trọng của Nhà nước, chúng tôi đề nghị xây dựng một quy trình ban hành các quyết định của Nhà nước theo hướng: Trước hết, cơ quan nhà nước có thẩm quyền xây dựng dự thảo quyết định nhà nước công bố rộng rãi chủ trương sẽ có một quyết định nhà nước về một vấn đề gì đó để tạo dư luận xã hội, đồng thời tổ chức hội nghị, hội thảo lấy ý kiến đóng góp của các tầng lớp nhân dân. Sau đó tổng hợp, báo cáo Bộ Chính trị hoặc Ban Chấp hành trung ương ra nghị quyết định hướng và giao Quốc hội xem xét quyết định cụ thể vấn đề đó.

3. Tăng cường hình thức tham vấn lấy ý kiến nhân dân trong việc xây dựng và thực thi các quyết định quan trọng của Nhà nước. Việc thu hút sự tham gia của đông đảo các tầng lớp nhân dân vào quá trình xây dựng chính sách và giám sát việc thực hiện chính sách trong các quyết định nhà nước đã được quy định trong một số văn bản quy phạm pháp luật như trong các quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, trong Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân, trong Quy chế dân chủ cơ sở… Tuy nhiên, các quy định này vẫn còn chung chung, chưa thật rõ ràng, minh bạch và có tính bắt buộc. Vì vậy, còn khó khăn trong việc thực hiện tham vấn nhân dân.

Tham vấn công chúng là một quá trình tương tác, trong đó, nhóm người dân chịu ảnh hưởng của một quyết định nào đó có cơ hội được bày tỏ và cân nhắc những quan điểm và ý kiến của mình trước khi quyết định nhà nước đó được thông qua.

– Hoạt động tham vấn có thể có nhiều hình thức thực hiện. Có thể chủ động hoặc bị động nhằm tìm kiếm ý kiến của người dân. Hoạt động này cũng có thể chú trọng tới đối tượng (nhóm người hoặc tổ chức) có lợi ích cụ thể và trực tiếp từ quyết định đó hoặc cũng có thể tìm kiếm thông tin từ công chúng.

– Hoạt động tham vấn có thể được sử dụng để tiếp nhận ý kiến của nhân dân trước khi một quyết định nhà nước được thông qua. Nó cũng được sử dụng để hiểu rõ hơn về nhận thức của người dân đối với việc thực hiện chính sách trong quyết định nhà nước đã được thông qua.

Việc tham vấn ý kiến của nhân dân trong xây dựng và thực hiện các quyết định của Nhà nước đòi hỏi phải tuân theo những nguyên tắc nhằm đảm bảo cho cơ quan có thẩm quyền ra quyết định nhà nước có được nhiều thông tin nhất trước khi ra quyết định. Đó là các nguyên tắc cơ bản sau:

Cởi mở và minh bạch: Quy trình tham vấn phải cởi mở đối với mọi người dân. Việc quảng bá, thông báo trước công chúng về hoạt động tham vấn cần phải tiến hành có kế hoạch, đảm bảo cho nhân dân có thời gian và biết trước về nội dung tham vấn để tìm hiểu thông tin liên quan từ nhiều người, từ đó chuẩn bị có hiệu quả cho nội dung tham vấn ý kiến nhân dân.

Các ý kiến đóng góp cần đa dạng: Cơ quan có thẩm quyền ra quyết định nhà nước cần tìm kiếm các ý kiến từ nhiều phương tiện. Do đó, tham vấn phải được tiến hành rộng rãi với nhiều tầng lớp nhân dân khác nhau. Hoạt động tham vấn không nên giới hạn ở một số cá nhân hoặc nhóm người có liên hệ gần gũi với đơn vị, cá nhân có thẩm quyền ban hành quyết định nhà nước, mà cần hướng tới quy mô rộng lớn hơn.

Trong quá trình tham vấn, cần phải làm cho người dân hiểu rằng, đây là một quy trình mang tính pháp lý và những ý kiến đóng góp của họ sẽ được xem xét. Có thể quyết định nhà nước được thông qua không theo đúng ý kiến của một số người dân, nhưng sau khi tham gia ý kiến, ít nhất họ cũng cảm thấy ý kiến của mình đã được xem xét.

Với các nguyên tắc tham vấn nói trên, cần phải xây dựng một văn bản quy phạm pháp luật (luật) về tham vấn ý kiến nhân dân trong việc xây dựng và thực hiện các quyết định nhà nước. Việc xây dựng luật về tham vấn ý kiến nhân dân có ý nghĩa rất quan trọng:

-Tạo cơ sở pháp lý để cho người dân được nói, được bàn về những vấn đề ảnh hưởng đến cuộc sống của mình;

-Tạo điều kiện cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu nhận được nhiều ý kiến trí tuệ từ các cuộc tham vấn để phục vụ cho việc ban hành các quyết định nhà nước và giám sát thực hiện các quyết định nhà nước đó;

-Nhân dân có điều kiện nhận được những phản hồi từ Nhà nước và có niềm tin rằng, những thông tin họ cung cấp tại các cuộc tham vấn có tác động đến hoạch định chính sách.

Luật về tham vấn ý kiến nhân dân cần phải quy định các hình thức tham vấn như:

Hội nghị lấy ý kiến tham vấn: Đây là hình thức lấy ý kiến thông qua hội nghị, mời người dân tới nghe trình bày và góp ý kiến. Có nhiều mức độ, nếu là hình thức hẹp theo thôn, bản, tổ dân phố, thì đây là hình thức “họp dân nơi cư trú”. Nếu là hội nghị tổ chức theo địa bàn huyện thì phải lập danh sách chọn những đối tượng cần mời tới hội nghị.

Khảo sát thực địa: Mục đích của khảo sát thực địa phải rõ ràng, phải chỉ ra những chứng cứ cần tìm, những nhân chứng cần hỏi và nghe ý kiến liên quan tới vấn đề cần khảo sát.

Tham vấn qua Internet: Đây là hình thức tham vấn bị động. Cơ quan có thẩm quyền soạn thảo các thông báo về nội dung cần tham vấn, đăng tải trên một trang web, ghi rõ địa chỉ hoặc cách thức gửi thư hoặc bày tỏ ý kiến qua trang web này hoặc gửi thư bưu điện.

Gặp gỡ, phỏng vấn riêng cá nhân về vấn đề cụ thể: Đây là hình thức nhằm phỏng vấn sâu, sau khi đã phát hiện ra rằng một số ý kiến đã được góp ý tại các cuộc tham vấn cần được trao đổi riêng để làm rõ các ý kiến này.

Sử dụng phương tiện thông tin đại chúng để tham vấn: Tương tự như hình thức tham vấn qua Internet, tuy nhiên cần khai thác những thế mạnh của từng phương tiện thông tin, ví dụ lên kế hoạch tổ chức các diễn đàn trao đổi chính sách trên đài truyền hình, truyền thanh địa phương hoặc trên các báo viết. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần phát hành bản thông cáo báo chí ghi rõ nội dung chính sách cần tham vấn, những giải thích ngắn gọn, rõ ràng, trả lời phỏng vấn trên phương tiện thông tin đại chúng, phản hồi ý kiến nhân dân trên một số phương tiện thông tin đại chúng đã chọn trước.

Tiếp nhận thư góp ý của nhân dân: Đây là hình thức tham vấn bị động. Cần chương trình quảng bá nội dung tham vấn và hướng dẫn địa chỉ và cách thức thu nhận, thời gian xử lý ý kiến của nhân dân và địa chỉ phản hồi chung. Hình thức này có thể bổ sung các đối tượng tham vấn không có điều kiện đến dự các cuộc tham vấn. Thư góp ý của nhân dân cần được tổng hợp đầy đủ để gửi tới bộ phận xử lý ý kiến tham vấn.

Tọa đàm, trao đổi với nhóm đối tượng hẹp: Người bị tác động, chuyên gia, doanh nghiệp, các cán bộ sở, ban, ngành… Đây là hình thức trao đổi chung như hình thức hội thảo để các đối tượng của chính sách được thảo luận, nghe ý kiến của các đối tượng khác và phát biểu quan điểm của mình. Kết quả của cuộc tọa đàm được tập hợp theo các nội dung tham vấn và bổ sung thông tin một cách toàn diện từ nhiều góc độ. Vấn đề được chọn để tọa đàm phải được rõ ràng và nên bố trí đặt ra các yêu cầu để những người phát biểu chuẩn bị từ trước, sau đó tới phần thảo luận chung.

Điều tra xã hội học: Theo hình thức này, đối tượng và nội dung cần điều tra phải được cơ quan tham vấn ấn định rõ; trên cơ sở đó, soạn thảo phiếu điều tra xã hội học; chọn phương pháp ngẫu nhiên, số lượng phiếu để xác định danh sách những người cần điều tra.

Hội nghị các bên liên quan để nghe đối chất, giải trình, nêu chứng lý, lập luận đối chứng. Đây là hình thức tổng kết tham vấn sau khi đã xong phần xử lý sơ bộ các ý kiến tham vấn thu thập được qua các hình thức khác. Yêu cầu của tổ chức hội nghị này là xác định nội dung cần giải thích, trao đổi tại hội nghị trên cơ sở các ý kiến tham vấn đã thu thập được nhằm mục đích làm rõ quan điểm của cơ quan soạn thảo chính sách, phương án tiếp thu và nghe thêm ý kiến của các đối tượng có những chính kiến rõ thông qua các đợt tham vấn, tạo điều kiện để Hội đồng nhân dân nghe các bên tranh luận bảo vệ quan điểm của mình.

Tiếp dân trực tiếp: Thông qua hoạt động tiếp dân thường kỳ, đại biểu dân cử có thể tiếp nhận các ý kiến đóng góp của dân hoặc hỏi ý kiến về nội dung cần tham vấn. Các ý kiến này cũng được ghi thành biên bản gửi tới trung tâm tham vấn để xử lý chung.

Sử dụng các tổ chức nghiên cứu độc lập: Đây là hình thức tham vấn thông qua một tổ chức nghiên cứu độc lập để bổ sung thông tin thu thập được qua các cuộc tham vấn.

GS, TS Trần Ngọc Đường – Viện Nghiên cứu lập pháp

 (MKLAW FIRM: Bài viết được đăng tải nhằm mục đích nghiên cứu, giáo dục, phổ biến, tuyên truyền pháp luật và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước không nhằm mục đích thương mại. Thông tin nêu trên chỉ có giá trị tham khảo và có thể một số thông tin pháp lý đã hết hiệu lực tại thời điểm  hiện tại vì vậy Quý khách khi đọc thông tin này cần tham khảo ý kiến luật sư, chuyên gia tư vấn trước khi áp dụng vào thực tế.)

——————————————————–

THAM KHẢO DỊCH VỤ TƯ VẤN LIÊN QUAN:

1. Tư vấn pháp luật lao động;

3. Tư vấn pháp luật lĩnh vực dân sự;

4. Tư vấn luật hành chính Việt Nam;

2. Luật sư riêng cho doanh nghiệp;

5. Dịch vụ luật sư tư vấn giải quyết tranh chấp tại tòa án.

6. Luật sư tư vấn giải quyết tranh chấp hôn nhân gia đình;

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *