Thưa luật sư, Tôi tên Mai. Năm 2010 tôi có mua một mảnh đất (2300m2). Đã có làm hợp đồng chuyển nhượng. Trong thời gian đợi làm sổ mới, chủ đất mượn lại "sổ đỏ củ" rồi thế chấp vào ngân hàng "Nông nghiệp và Phát Triển Nông Thôn" với số tiền là 60.000.000 (Sau mươi triệu) mà không thông báo cho tôi biết vụ việc trên, rồi cố tình không cắt "sổ đỏ" cho tôi.

Nay tôi muốn làm đơn nhờ cơ quan pháp luật giải quyết? Tôi xin hỏi hướng giải quyết vụ việc trên? Và cơ quan nào sẻ giải quyết khiếu nại của tôi?

Kính mong được sự giúp đở của ban luật sự. tôi xin cám ơn!

Người gửi: Nguyễn Lợi

>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài điện thoạị gọi:

 

Trả lời:

Chào bạn! Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi vào chuyên mục của chúng tôi, câu hỏi của bạn được trả lời như sau:

Theo điểm A2 mục II nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10 thang 8 năm 2004 quy định:

A.2. Nếu bên nhận chuyển nhượng đã trả đủ tiền nhưng chưa nhận đất và bên chuyển nhượng vẫn quản lý, sử dụng, chưa xây dựng công trình kiến trúc trên đất đó, thì các bên phải thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác.

Trong trường hợp bên chuyển nhượng đã làm nhà ở hoặc không có điều kiện để giao đất cho bên nhận chuyển nhượng, thì tuỳ trường hợp cụ thể Toà án có thể huỷ hợp đồng, buộc bên chuyển nhượng phải thanh toán cho bên nhận chuyển nhượng khoản tiền đã nhận theo giá đất thực tế trên thị trường tại thời điểm xét xử sơ thẩm.

Áp dụng vào tình huống của bạn thì hợp đồng chuyển nhượng này đúng quy định có nghĩa là chủ đất cũ phải có nghĩa vụ giao đất và sổ đỏ cho bạn.

Nhưng chủ đất có hành vi:

– Mượn lại “sổ đỏ cũ” thế chấp ngân hàng “Nông nghiệp và Phát triển Nông Thôn” với số tiền 60.000.000 VNĐ

– Cố ý không báo sự việc cho bạn và không cắt “sổ đỏ” cho bạn.

Áp dụng điều 139 BLHS 1999 thì chủ đất phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Điều 139. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

a) Có tổ chức;

b) Có tính chất chuyên nghiệp;

c) Tái phạm nguy hiểm;

d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;

e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;

g) Gây hậu quả nghiêm trọng.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;

b)Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.

a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;

b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

Khởi tố 1 vụ án hình sự tại tòa án nhân dân và viện kiểm soát có trách nhiệm thi hành án.

Trân trọng./.

BỘ PHẬN TƯ VẤN LUẬT ĐẤT ĐAI

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *