QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM SỐ 20/2006/DS-GĐT NGÀY 02-8-2006 VỀ VỤ ÁN “TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT”

.

Luật sư tư vấn luật thuế qua điện thoại gọi:  –

————————————————————————–

QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM SỐ 20/2006/DS-GĐT
NGÀY 02-8-2006 VỀ VỤ ÁN “TRANH CHẤP
QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT”

 

HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

..

Ngày 02 tháng 8 năm 2006, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao đã mở phiên toà giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự tranh chấp về quyền sử dụng đất giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Tám sinh năm 1926; trú tại: nhà số A10/1 ấp 1, xã Bình Chánh, huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh. (Bà Nguyễn Thị Tám uỷ quyền cho anh Nguyễn Anh Tuyên sinh năm 1965 theo giấy uỷ quyền ngày 08-10-2001).

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Thành Điểm sinh năm 1936; trú cùng địa chỉ với nguyên đơn.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Anh Tuyên sinh năm 1965; trú cùng địa chỉ với nguyên dơn.

NHẬN THẤY:

Tại đơn khởi kiện và các lời khai tại Toà án, được bà Nguyễn Thị Tám uỷ quyền, anh Nguyễn Anh Tuyên trình bày: diện tích 3.569m2 đất nông nghiệp thuộc thửa 199 và thửa 203 tờ bản đồ số 7, toạ lạc tại ấp 2, xã Bình Chánh, huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh có nguồn gốc do cha mẹ của bà Tám và ông Nguyễn Thành Điểm là cụ Nguyễn Quốc Tuý và cụ Hồ Thị Chọn để lại. Cụ Tuý chết năm 1967. Cụ Chọn chết năm 1983. Sau khi cụ Chọn chết bà Tám và bà Nguyễn Thị Thình (là em gái bà Tám) tiếp tục sử dụng diện tích đất trên. Năm 1993 bà Thình xuất cảnh thì ông Điểm tiếp tục sử dụng đất.
Năm 1994 ông Điểm đại diện cho hộ gia đình đăng ký kê khai và năm 1998
hộ ông Điểm được Uỷ ban nhân dân huyện Bình Chánh cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích 11.921m2 (bao gồm cả thửa 199 diện tích 2.468m2 và thửa 203 diện tích 1.101m2). Bà Tám yêu cầu ông Điểm chia cho bà 1/2 diện tích đất thuộc hai thửa đất trên, vì đất cấp cho hộ ông Điểm trong đó có bà là chủ hộ.

Bị đơn ông Nguyễn Thành Điểm không đồng ý chia đất theo yêu cầu của bà Tám vì cho rằng khi bà Thình xuất cảnh sang Mỹ đã giao đất cho ông sử dụng. Ông đã kê khai, đóng thuế và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào năm 1998.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 1443/DSST ngày 23-8-2002, Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh quyết định:

1. Bác đơn của bà Nguyễn Thị Tám kiện ông Nguyễn Thành Điểm đòi phân chia thừa kế hai thửa đất số 199 và 203 có diện tích 3.569m2 thuộc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 937 ngày 12-02-1998 do Uỷ ban nhân dân huyện Bình Chánh cấp cho ông Nguyễn Thành Điểm.

2. Không giải quyết phần nhà đất tại số A10/1 ấp 1 xã Bình Chánh, huyện Bình Chánh có diện tích 2.926m2. Các đương sự sẽ khởi kiện thành vụ kiện khác khi có Nghị quyết của Quốc hội.

Ngoài ra Toà án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo.

Ngày 26-8-2002, anh Nguyễn Anh Tuyên (được bà Tám uỷ quyền) có đơn kháng cáo không đồng ý với bản án sơ thẩm.

Tại bản án dân sự phúc thẩm số 44/DSPT ngày 10-3-2003, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh quyết định: huỷ toàn bộ bản án sơ thẩm số 1143/DSST ngày 23-8-2002 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh; giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử lại theo thủ tục chung.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 2111/DSST ngày 23-9-2004, Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh quyết định:

Chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Thị Tám. Buộc ông Nguyễn Thành Điểm phải giao cho bà Tám phần đất có diện tích 1.500m2 tại thửa số 199 tờ bản đồ số 7, toạ lạc tại ấp 2, xã Bình Chánh, huyện Bình Chánh, bề ngang 22,34m dài hết đất, bên phải thửa 199 từ Hương lộ 10 nhìn vào.

Ghi nhận việc bà Tám đồng ý trả cho ông Điểm trị giá những cây xoài trên phần đất được chia là 53 cây ´ 120.000 đồng = 6.360.000 đồng.

Ngoài ra Toà án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo.

Ngày 27-9-2004, ông Điểm có đơn kháng cáo không đồng ý với bản án sơ thẩm.

Tại bản án dân sự phúc thẩm số 148/DSPT ngày 10-5-2005, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh quyết định: giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.

Sau khi xét xử phúc thẩm, anh Nguyễn Thành Danh (là con trai ông Điểm – được ông Điểm uỷ quyền) có đơn khiếu nại gửi Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao không đồng ý với quyết định tại bản án phúc thẩm và không đồng ý chia đất thuộc thửa 199 và 203 cho bà Tám.

Tại Quyết định số 42/QĐ-KNGĐT-V5 ngày 31-5-2006, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm nêu trên của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm huỷ bản án dân sự phúc thẩm số 148/DSPT ngày 10-5-2005 của Toà phúc thẩm
Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và bản án dân sự sơ thẩm
số 2111/DSST ngày 23-9-2005 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh; giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

Tại phiên toà giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

XÉT THẤY:

Diện tích đất 3.569m2 thuộc thửa 199 và thửa 203 là của cụ Nguyễn Quốc Tuý (chết năm 1967) và cụ Hồ Thị Chọn (chết năm 1983) để lại. Sau khi cụ Chọn chết, bà Nguyễn Thị Thình (là em ruột của bà Tám và ông Điểm) tiếp tục sử dụng và canh tác trên diện tích đất này. Năm 1988, bà Thình được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời. Năm 1993, bà Thình xuất cảnh đi Mỹ, ông Điểm sử dụng và canh tác trên diện tích đất do bà Thình để lại.

Năm 1994 ông Điểm đại diện hộ gia đình đứng tên kê khai đất (trong đó có 2 thửa đất đang có tranh chấp). Ngày 12-02-1998 ông Điểm đã được Uỷ ban nhân dân huyện Bình Chánh cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 937 đối với diện tích đất 11.921m2 (trong đó có thửa 199 diện tích 2.468m2 và thửa 203 diện tích 1.101m2).

Tại hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 1998 lưu tại Uỷ ban nhân dân huyện Bình Chánh cho thấy Uỷ ban đã cấp đất cho 29 hộ, trong đó có hộ ông Nguyễn Thành Điểm.

Theo xác nhận của Uỷ ban nhân dân huyện Bình Chánh tại Công văn
số 763/UB ngày 30-8-2004 thì: “việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là căn cứ vào số nhân khẩu trong hộ gia đình ông Điểm, ông Điểm là chủ hộ người đứng tên đại diện.

Về nhân khẩu trong hộ tại thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Toà án nhân dân thành phố liên hệ Công an xã Bình Chánh hoặc yêu cầu ông Điểm nộp bản sao hộ khẩu của gia đình ông”.

Theo sổ hộ khẩu của gia đình ông Điểm, bà Tám vào ngày 15-01-1994 thì trong sổ hộ khẩu gia đình ông Điểm có 03 người, gồm có bà Tám là chủ hộ, ông Điểm và anh Tuyên là thành viên trong hộ.

Tại đơn xin đăng ký quyền sử dụng ruộng đất ngày 30-10-1994, ông Điểm đã xác định số nhân khẩu trong hộ là 2/3, thể hiện ông Điểm đã kê khai đăng ký đất cho hộ gia đình gồm có ông và bà Tám, còn anh Tuyên là kỹ sư điện tử, làm việc tại thành phố Hồ Chí Minh và không thuộc diện được cấp đất nông nghiệp, nên ông Điểm không kê khai có anh Tuyên.

Với các chứng cứ trên đây, có đủ căn cứ kết luận tranh chấp trong vụ án này là tranh chấp về quyền sử dụng đất nông nghiệp giữa các thành viên hộ gia đình; diện tích 3.569m2 đất (thửa 199, 203) được cấp cho hộ gia đình đứng tên ông Nguyễn Thành Điểm gồm có hai người là bà Tám và ông Điểm. Vì vậy, Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm xác định ông Điểm, bà Tám là những người trong cùng một hộ được cấp quyền sử dụng đất đối với 2 thửa đất nêu trên và chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Tám về việc buộc ông Điểm giao cho bà Tám 1.500m2 đất tại thửa số 199, tờ bản đồ số 7, toạ lạc tại ấp 2, xã Bình Chánh, huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh là có căn cứ, đúng pháp luật.

Vì các lẽ trên, căn cứ vào khoản 1 Điều 297 Bộ luật tố tụng dân sự;

QUYẾT ĐỊNH:

Không chấp nhận kháng nghị số 42/QĐ-KNGĐT-V5 ngày 31-5-2006 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và giữ nguyên bản án dân sự phúc thẩm số 148/DSPT ngày 10-5-2005 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đã xét xử vụ án dân sự tranh chấp quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Tám với bị đơn là ông Nguyễn Thành Điểm và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Nguyễn Anh Tuyên.

____________________________________________

– Lý do không chấp nhận kháng nghị:

            Quyết định của bản án phúc thẩm là đúng pháp luật, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

—————————————————————- 

THAM KHẢO DỊCH VỤ PHÁP LÝ LIÊN QUAN:

1. Tư vấn pháp luật về thuế;
2.Tư vấn đăng ký chất lượng hàng hóa;
3. Dịch vụ kê khai báo cáo thuế hàng tháng;
4. Kế toán thuế cho doanh nghiệp mới thành lập;
5. Tư vấn pháp luật thương mại quốc tế và thuế;

6. Dịch vụ luật sư tư vấn pháp luật thường xuyên;
7. Dịch vụ kế toán thuế thường xuyên cho doanh nghiệp;
8. Luật sư tư vấn pháp luật Tài Chính, Thuế và Ngân Hàng;

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *