QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM SỐ 04/2006/HC-GĐT NGÀY 09-11-2006 VỀ VỤ ÁN TRANH CHẤP HÀNH CHÍNH “KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH THU HỒI VÀ HUỶ GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT”

>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua điện thoại gọi:  –

 

QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM SỐ 04/2006/HC-GĐT
NGÀY 09-11-2006 VỀ VỤ ÁN TRANH CHẤP HÀNH CHÍNH “KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH THU HỒI VÀ HUỶ
GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT”

 

HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Ngày 09 tháng 11 năm 2006, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao đã mở phiên toà giám đốc thẩm xét xử vụ án hành chính giữa các đương sự:

Người khởi kiện:

1. Bà Đỗ Thị Râm, sinh năm 1953;

2. Chị Vi Thị Thuyết, sinh năm 1984;

3. Anh Vi Văn Soái, sinh năm 1986,

Cùng trú tại tiểu khu 1, thị trấn An Châu, huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang.

Bà Đỗ Thị Râm, chị Vi Thị Thuyết và anh Vi Văn Soái cùng uỷ quyền cho:

1. Ông Vi Đức Lập, sinh năm 1942; trú tại thôn Thượng, xã An Châu, huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang;

2. Ông Phạm Chí Công, sinh năm 1979; trú tại số 181 phố Chợ Mát, phường Thanh Bình, thành phố Hải Dương, tạm trú tại số 148 đường Trần Duy Hưng, phường Trung Hoà, quận Cầu Giấy, Hà Nội;

Người bị kiện: Uỷ ban nhân dân tỉnh Bắc Giang;

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Uỷ ban nhân dân huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang.

NHẬN THẤY:

Ngày 7-11-1983, đại diện Uỷ ban nhân dân huyện Sơn Động, Uỷ ban nhân dân xã An Châu, đại diện chính quyền khối phố và Trưởng Bến xe khách Sơn Động lập Văn bản tạm cắt đất làm quán trong khu vực bến xe cho một số hộ gia đình trong đó có hộ ông Vi Xuân Trường – diện tích mỗi quán là 9m2 (3m ´ 3m); các hộ phải chấp hành các quy định: đóng lệ phí cho bến xe, khi địa phương bố trí hay có phương án quy hoạch vào địa điểm mới cũng như bến xe có thay đổi thì các hộ phải di chuyển theo sự hướng dẫn của bến xe và địa phương.

Năm 1998, khi tiến hành lập bản đồ địa chính, đơn vị đo đạc đã đo và đưa diện tích nhà quản lý bến xe vào diện tích quán của ông Vi Xuân Trường.

Ông Nguyễn Đức Thuần là Bí thư Chi bộ đã ký thay ông Vi Xuân Trường tại hồ sơ kỹ thuật thửa đất lập tháng 12-1998 với diện tích đất ở là 134,1m2 thuộc thửa số 4 tờ bản đồ địa chính số 11 khu 1, thị trấn An Châu và Đơn xin đăng ký quyền sử dụng đất đứng tên ông Vi Xuân Trường và bà Nguyễn Thị Râm ngày 10-4-1999 với diện tích sử dụng 134,1m2.

Tại Biên bản xét duyệt ngày 27-4-1999, Hội đồng đăng ký đất đã xét duyệt 780 hộ gia đình có đủ điều kiện được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong đó có hộ gia đình ông Vi Xuân Trường.

Ngày 28-12-1999, Uỷ ban nhân dân tỉnh Bắc Giang cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00086 QSDĐ/QĐ 1732/QĐ-CT cho ông Vi Xuân Trường, diện tích 134,1m2.

Ngày 06-12-2001, Uỷ ban nhân dân tỉnh Bắc Giang ra Quyết định
số 1992/QĐ-CT duyệt điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất từ đất chuyên dùng sang đất khu dân cư tại khu vực ngã tư thị trấn An Châu, huyện Sơn Động với diện tích 1.381m2 (trong đó có diện tích đất gia đình ông Vi Xuân Trường đang sử dụng).

Ngày 14-12-2001, Uỷ ban nhân dân huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang có Thông báo số 86/TB-UB về việc thu hồi đất khu bến xe của ông Vi Xuân Trường (trong thông báo ghi là Vi Quốc Trường) với lý do: Khu đất bến xe trong đó có nhà ông Trường đang ở đã được Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Bắc phê duyệt cấp cho Sở giao thông vận tải làm bến xe khách…, giấy tờ về đất của ông không đảm bảo tính pháp lý về quyền sử dụng đất lâu dài theo các văn bản hướng dẫn của Nhà nước về đất đai. Yêu cầu ông tự tháo dỡ quán và các công trình trên đất.

Ngày 22-4-2002, Uỷ ban nhân dân huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang ra Quyết định số 310/QĐ-CT về việc phê duyệt giá đất bến xe cũ để tiến hành bán đấu giá quy hoạch khu dân cư. Các cơ quan chức năng của huyện Sơn Động đã tổ chức bán đấu giá, trong đó có diện tích đất ông Vi Xuân Trường. Gia đình ông Vi Xuân Trường không tham gia đấu giá.

Để đảm bảo cho gia đình ông Vi Xuân Trường có chỗ ở, ngày 13-6-2003, Uỷ ban nhân dân huyện Sơn Động ra Quyết định số 287/QĐ-UB về việc cấp đất ở cho ông Vi Xuân Trường, diện tích 88m2, địa điểm cạnh bến xe ô tô mới. Uỷ ban nhân dân huyện Sơn Động không thu tiền sử dụng đất đối với ông Vi Xuân Trường. Ông Vi Xuân Trường đã nhận đất và xây nhà.

Tại Báo cáo số 01/BC-TCT ngày 08-8-2003 của Tổ công tác Phòng địa chính xác định: lô đất hiện trạng gia đình ông Vi Xuân Trường đang sử dụng có diện tích 48,02m2; diện tích bến xe cũ có tổng diện tích là 1.381m2, trong đó có 134,1m2 đất đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Vi Xuân Trường.

Ngày 08-9-2004, Uỷ ban nhân dân huyện Sơn Động có Tờ trình số 201/TT-UB trình Uỷ ban nhân dân tỉnh Bắc Giang và Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh
Bắc Giang ra quyết định thu hồi, huỷ bỏ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số 00086/QSDĐ ngày 28-12-1999 của ông Vi Xuân Trường, với nội dung: đơn vị đo đạc đã đưa toàn bộ nhà quản lý bến xe của huyện vào diện tích quán của ông Vi Xuân Trường làm thành thửa số 4, tờ bản đồ số 11, diện tích 134,1m2; về trình tự lập hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Vi Xuân Trường là sai so với quy định của Luật đất đai và Thông tư số 346/TT-TCĐC ngày 16-3-1998 của Tổng cục địa chính, cụ thể: đây là đất chuyên dùng, ông Vi Xuân Trường không kê khai đăng ký quyền sử dụng đất, đơn xin đăng ký quyền sử dụng đất do người khác ký, không có uỷ quyền của ông Vi Xuân Trường; Hội đồng cấp đất thị trấn An Châu không xét cấp đất cho ông Trường thửa số 4, tờ bản đồ số 11, khi tổng hợp danh sách đề nghị cấp trên phê duyệt do nhầm lẫn của cán bộ giúp việc nên đã đưa danh sách ông Trường vào số hộ đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Căn cứ Tờ trình số 201/TT-UB ngày 08-9-2004 của Uỷ ban nhân dân huyện Sơn Động, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bắc Giang có Tờ trình
số 1351/TTr-TNMT-ĐKĐĐ ngày 14-9-2004 đề nghị Uỷ ban nhân dân tỉnh Bắc Giang thu hồi và huỷ bỏ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông Vi Xuân Trường.

Ngày 04-10-2004, Uỷ ban nhân dân tỉnh Bắc Giang ra Quyết định
số 1549/QĐ-CT thu hồi và huỷ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có số sêri Q691394 đã cấp cho hộ ông Vi Xuân Trường tại tiểu khu 1, thị trấn An Châu, huyện Sơn Động theo Quyết định số 1732/QĐ-CT ngày 28-12-1999 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Bắc Giang. Ông Vi Xuân Trường đã khiếu nại quyết định trên.

Ngày 24-02-2005, ông Vi Xuân Trường chết, gia đình ông Vi Xuân Trường dựng cột cây, lợp mái bằng tấm lợp trên diện tích 115,8m2 tại đất bến xe cũ. Uỷ ban nhân dân huyện Sơn Động đã thông báo nhiều lần yêu cầu hộ gia đình ông Vi Xuân Trường tự tháo dỡ, nhưng đến nay gia đình vẫn chưa tháo dỡ.

Ngày 27-5-2005, Uỷ ban nhân dân tỉnh Bắc Giang ra Quyết định
số 934/QĐ-CT không chấp nhận đơn khiếu nại của ông Vi Xuân Trường;
giữ nguyên Quyết định số 1549/QĐ-CT ngày 04-10-2004 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Bắc Giang.

Ngày 15-7-2005, bà Đỗ Thị Râm, chị Vi Thị Thuyết và anh Vi Văn Soái khởi kiện vụ án hành chính đề nghị Toà án huỷ Quyết định số 1549/QĐ-CT ngày 04-10-2004 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Bắc Giang.

Tại bản án hành chính sơ thẩm số 01/HCST ngày 21-9-2005, Toà án nhân dân tỉnh Bắc Giang quyết định: Bác yêu cầu khởi kiện của đại diện hợp pháp của ông Vi Xuân Trường về việc đề nghị huỷ bỏ Quyết định số 1549/QĐ-CT ngày 04-10-2004 của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Bắc Giang; giữ nguyên Quyết định số 1549/QĐ-CT ngày 04-10-2004 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Bắc Giang.

Ngày 28-9-2005, bà Đỗ Thị Râm, chị Vi Thị Thuyết và anh Vi Văn Soái có đơn kháng cáo đối với bản án hành chính sơ thẩm.

Tại bản án hành chính phúc thẩm số 17/2006/HCPT ngày 19-01-2006, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội quyết định: sửa bản án hành chính sơ thẩm số 01/HCST ngày 21-9-2005 của Toà án nhân dân tỉnh Bắc Giang; huỷ Quyết định số 1549/QĐ-CT ngày 04-10-2004 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Bắc Giang.

Ngày 09-3-2006, Uỷ ban nhân dân huyện Sơn Động có đơn đề nghị Toà án nhân dân tối cao xem xét bản án hành chính phúc thẩm số 17/2006/HCPT ngày 19-01-2006 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội.

Ngày 30-3-2006, Uỷ ban nhân dân tỉnh Bắc Giang có Công văn
số 552/UBND-TD đề nghị Toà án nhân dân tối cao kháng nghị bản án hành chính phúc thẩm số 17/2006/HCPT ngày 19-01-2006 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội.

Tại Kháng nghị số 03/KN-TK ngày 15-7-2006, Chánh án Toà án nhân dân tối cao đã kháng nghị bản án hành chính phúc thẩm số 17/2006/HCPT
ngày 19-01-2006 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội và đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xử huỷ bản án hành chính phúc thẩm nêu trên, giữ nguyên bản án sơ thẩm của Toà án nhân dân tỉnh Bắc Giang.

Tại Kết luận số 13/KL-AHC ngày 19-9-2006, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với Kháng nghị số 03/KN-TK ngày 15-7-2006 của Chánh án Toà án nhân dân tối cao.

Tại phiên toà giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao huỷ bản án hành chính phúc thẩm số 17/2006/HCPT ngày 19-01-2006 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội; giữ nguyên bản án hành chính sơ thẩm số 01/2005/HCST ngày 21-9-2005 của Toà án nhân dân tỉnh Bắc Giang.

XÉT THẤY:

Trong vụ án này, ông Vi Xuân Trường cùng vợ và các con ông Trường đều là thành viên trong hộ gia đình, cho nên đều có quyền tham gia tố tụng với tư cách là người khởi kiện.

Diện tích 134,1m2 đất ghi trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00086 QSDĐ/QĐ cấp cho gia đình ông Vi Xuân Trường có nguồn gốc là đất chuyên dùng của bến xe khách huyện Sơn Động do chính quyền địa phương và ban quản lý bến xe cho hộ gia đình ông Vi Xuân Trường mượn tạm làm quán bán hàng. Khi đăng ký quyền sử dụng đất, ông Nguyễn Đức Thuần đã tự ký thay ông Vi Xuân Trường không có sự uỷ quyền. Khi đo đạc bản đồ địa chính năm 1998, đã đưa nhầm diện tích nhà quản lý bến xe vào diện tích quán của ông Vi Xuân Trường thành thửa đất số 4 tờ bản đồ số 11 đứng tên ông Vi Xuân Trường. Khi tổng hợp danh sách đề nghị cấp trên phê duyệt do nhầm lẫn của cán bộ giúp việc nên đã đưa danh sách ông Vi Xuân Trường vào số hộ đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Việc Uỷ ban nhân dân tỉnh Bắc Giang cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Vi Xuân Trường với diện tích là 134,1m2 đất tại bến xe Sơn Động cũ là không đúng quy định của Luật đất đai và Thông tư số 346/TT-ĐC ngày 16-3-1998 của Tổng cục địa chính.

Căn cứ vào nguồn gốc đất và trình tự cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, theo đề nghị của Uỷ ban nhân dân huyện Sơn Động và Sở tài nguyên và Môi trường tỉnh Bắc Giang, Uỷ ban nhân dân tỉnh Bắc Giang đã ban hành Quyết định số 1549/QĐ-CT ngày 04-10-2004 thu hồi và huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho hộ ông Vi Xuân Trường tại tiểu khu 1, thị trấn An Châu, huyện Sơn Động là có căn cứ, đúng pháp luật; đồng thời khi yêu cầu gia đình ông Vi Xuân Trường giao lại đất, Uỷ ban nhân dân huyện Sơn Động đã cấp cho gia đình ông Vi Xuân Trường diện tích 88m2 tại khu vực bến xe mới là hợp tình, hợp lý; gia đình ông Vi Xuân Trường đã nhận đất và làm nhà ở.

Khi xét xử sơ thẩm, Toà án nhân dân tỉnh Bắc Giang quyết định bác yêu cầu đề nghị huỷ Quyết định số 1549/QĐ-CT ngày 04-10-2004 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Bắc Giang của người khởi kiện là phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và đúng với quy định của pháp luật. Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội khi xét xử phúc thẩm vụ án đã quyết định huỷ Quyết định
số 1549/QĐ-CT ngày 04-10-2004 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Bắc Giang về việc thu hồi và huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho hộ ông Vi Xuân Trường là không có căn cứ và đúng pháp luật.

Vì các lẽ trên; căn cứ vào khoản 2 Điều 72 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính,

QUYẾT ĐỊNH:

Huỷ bản án hành chính phúc thẩm số 17/2006/HCPT ngày19-01-2006 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội; giữ nguyên bản án hành chính sơ thẩm số 01/2005/HCST ngày 21-9-2005 của Toà án nhân dân tỉnh
Bắc Giang.

____________________________________________

– Lý do huỷ bản án phúc thẩm:

Việc Toà án cấp phúc thẩm quyết định huỷ quyết định thu hồi và huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của Uỷ ban nhân dân tỉnh Bắc Giang là không có căn cứ.

– Nguyên nhân dẫn đến việc huỷ bản án phúc thẩm:

            Thiếu sót trong việc đánh giá chứng cứ.

(Nptlawyer.com LAW FIRM: Bài viết được đăng tải nhằm mục đích giáo dục, phổ biến, tuyên truyền pháp luật và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước không nhằm mục đích thương mại. Thông tin nêu trên chỉ có giá trị tham khảo và có thể một số thông tin pháp lý đã hết hiệu lực tại thời điểm  hiện tại vì vậy Quý khách khi đọc thông tin này cần tham khảo ý kiến luật sư, chuyên gia tư vấn trước khi áp dụng vào thực tế.)

——————————————
DỊCH VỤ PHÁP LÝ LIÊN QUAN:
1. Luật sư riêng cho gia đình;

2. Tư vấn pháp luật lĩnh vực dân sự;

3. Tư vấn xử lý nợ cho doanh nghiệp;

4. Dịch vụ Luật sư Riêng cho Cá nhân;

5. Dịch vụ luật sư bào chữa, tranh tụng tại Tòa án;

6. Dịch vụ luật sư tư vấn trực tuyến qua tổng đài ;

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *