Kính chào luật sư!. Xin luật sư tư giúp e vấn đề này: Trước đây vào năm 2003 Huyện em có thực hiện dự án khu hành chính huyện có quyết định thu hồi đất chung của UBND Tỉnh chỉ nói diện tích thu hồi và loại đất gì thôi. Không có quyết định thu hồi đất.

Về nguồn gốc đất là do người dân tự khai phá và sử dụng ổn định trước năm 1975, Thu hồi đất nông nghiệp ( trồng lúa) của người dân có 1 phần đất giáp kênh thủy lợi cấp 3 ( lưu ý là phần giáp bờ kênh được người dân sử dụng đi như đường mòn khi đi trồng lúa giống như bờ mẫu). Khi phê duyệt dự án trên huyện tiến hành bồi thường đất cho người dân nhưng trừ đi 1 phần diện tích đất giáp bờ kênh vì cho rằng đất bảo lưu vên sông. Và áp dụng Nghị định 22, 197 và thông tư 145 để bồi thường. Đến năm 2010 phần diện tích chưa bồi thường của người dân ( cho là đất bảo lưu vên sông) đã làm lộ thảm nhựa 6m. UBND Tỉnh và huyện đồng ý bồi thường cho người dân phần đất chưa bồi thường nhưng lại áp dụng quy định như thế này theo Khoản 2 điều 9 nghị định 197 là chậm bồi thường: – Về giá: áp dụng giá quy định hiện hành  và về vị trí: vị trí ngày xưa (vị trí giáp kênh thủy lợi) Theo quan điểm của e nhu sau: Năm 2003 huyện thu hồi đất tổng thể và cho rằng đất bảo lưu ven sông là do nhà nước quản lý nên không bồi thường là không đúng và đến năm 2010 đồng ý bồi thường cho người dân là chấp nhận đất của người dân đang sử dụng. Nhưng lại cho rằng chậm bồi thường chứ không phải chưa bồi thường. Theo quan điểm của e chậm bồi thường là đã có quyết định thu hồi đất và quyết đinh chi trả tiền bồi thường nhưng chưa tiến hành chi trả tiền bồi thường thì ta áp dụng khoản 2 điều 9 nghị định 197. Còn sự việc này trước đến nay chưa có quyết định bồi thường cho người dân thì đất đó dù nhà nước đã làm lộ nhựa nhưng vẫn là đất của người dân được nhà nước công nhận quyền sử dụng. Như vậy việc tiếp tục bồi thường cho người dân được thực hiện theo quy định hiện hành do lỗi nhà nước đó là: – về giá: giá hiện hành – về vị trí: vị trí hiện nay là vị trí lộ đã hình thành tính bồi thường theo giá đất nông nghiệp va hỗ trợ 50% giá đất của con lộ theo mức giá của UBND tỉnh ban hành. Vì đất của người dân bị nhà nước lấy làm lộ nhựa. Sự việc đang gây ra nhiều ý kiến em rất mong luật sư tư vấn để em tham khảo và nghiên cứu thêm để giải quyết vấn đề đúng quy định pháp luật.

Em xin chân thành cảm ơn!.

Câu hỏi được biên tập từ chuyên mục tư vấn luật đất đai   của Nptlawyer.com ;

Luật sư tư vấn luật đất đai gọi:  

Trả lời:

Chào bạn,Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư T ư vấn luật đất đai  của Nptlawyer.com ;. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

 

1.Cơ sở pháp lý:

 Luật đất đai năm 2003

Luật đất đai năm 2013 

2.Nội dung tư vấn:

Thứ nhất, quy định về thu hồi đất theo Luật đất đai năm 2003.

Điều 4. Giải thích từ ngữ

5. Thu hồi đất là việc Nhà nước ra quyết định hành chính để thu lại quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất đã giao cho tổ chức, Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn quản lý theo quy định của Luật này.

Điều 38. Các trường hợp thu hồi đất

Nhà nước thu hồi đất trong các trường hợp sau đây:

1. Nhà nước sử dụng đất vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, phát triển kinh tế;

2. Tổ chức được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất, được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất mà tiền sử dụng đất có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước hoặc cho thuê đất thu tiền thuê đất hàng năm bị giải thể, phá sản, chuyển đi nơi khác, giảm hoặc không còn nhu cầu sử dụng đất;

3. Sử dụng đất không đúng mục đích, sử dụng đất không có hiệu quả;

4. Người sử dụng đất cố ý hủy hoại đất;

5. Đất được giao không đúng đối tượng hoặc không đúng thẩm quyền;

6. Đất bị lấn, chiếm trong các trường hợp sau đây:

a) Đất chưa sử dụng bị lấn, chiếm;

b) Đất không được chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của Luật này mà người sử dụng đất do thiếu trách nhiệm để bị lấn, chiếm;

7. Cá nhân sử dụng đất chết mà không có người thừa kế;

8. Người sử dụng đất tự nguyện trả lại đất;

9. Người sử dụng đất cố ý không thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước;

10. Đất được Nhà nước giao, cho thuê có thời hạn mà không được gia hạn khi hết thời hạn;

11. Đất trồng cây hàng năm không được sử dụng trong thời hạn mười hai tháng liền; đất trồng cây lâu năm không được sử dụng trong thời hạn mười tám tháng liền; đất trồng rừng không được sử dụng trong thời hạn hai mươi bốn tháng liền;

12. Đất được Nhà nước giao, cho thuê để thực hiện dự án đầu tư mà không được sử dụng trong thời hạn mười hai tháng liền hoặc tiến độ sử dụng đất chậm hơn hai mươi bốn tháng so với tiến độ ghi trong dự án đầu tư, kể từ khi nhận bàn giao đất trên thực địa mà không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định giao đất, cho thuê đất đó cho phép.

Thứ hai, quy định về bồi thường khi thu hồi đất theo Luật  đất đai năm 2003.

Điều 42. Bồi thường, tái định cư cho người có đất bị thu hồi

1. Nhà nước thu hồi đất của người sử dụng đất mà người bị thu hồi đất có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc đủ điều kiện để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định tại Điều 50 của Luật này thì người bị thu hồi đất được bồi thường, trừ các trường hợp quy định tại các khoản 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11 và 12 Điều 38 và các điểm b, c, d, đ và g khoản 1 Điều 43 của Luật này.

2. Người bị thu hồi loại đất nào thì được bồi thường bằng việc giao đất mới có cùng mục đích sử dụng, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng giá trị quyền sử dụng đất tại thời điểm có quyết định thu hồi.

3. Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương lập và thực hiện các dự án tái định cư trước khi thu hồi đất để bồi thường bằng nhà ở, đất ở cho người bị thu hồi đất ở mà phải di chuyển chỗ ở. Khu tái định cư được quy hoạch chung cho nhiều dự án trên cùng một địa bàn và phải có điều kiện phát triển bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ.

Trường hợp không có khu tái định cư thì người bị thu hồi đất được bồi thường bằng tiền và được ưu tiên mua hoặc thuê nhà ở thuộc sở hữu của Nhà nước đối với khu vực đô thị; bồi thường bằng đất ở đối với khu vực nông thôn, trường hợp giá trị quyền sử dụng đất ở bị thu hồi lớn hơn đất ở được bồi thường thì người bị thu hồi đất được bồi thường bằng tiền đối với phần chênh lệch đó.

4. Trường hợp thu hồi đất của hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất mà không có đất để bồi thường cho việc tiếp tục sản xuất thì ngoài việc được bồi thường bằng tiền, người bị thu hồi đất còn được Nhà nước hỗ trợ để ổn định đời sống, đào tạo chuyển đổi ngành nghề, bố trí việc làm mới.

5. Trường hợp người sử dụng đất được Nhà nước bồi thường khi thu hồi đất mà chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính về đất đai theo quy định của pháp luật thì phải trừ đi giá trị nghĩa vụ tài chính chưa thực hiện trong giá trị được bồi thường, hỗ trợ.

6. Chính phủ quy định việc bồi thường, tái định cư cho người có đất bị thu hồi và việc hỗ trợ để thực hiện thu hồi đất.

Điều 43. Những trường hợp thu hồi đất mà không bồi thường

1. Nhà nước thu hồi đất mà không bồi thường về đất trong các trường hợp sau đây:

a) Thu hồi đất trong các trường hợp quy định tại các khoản 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11 và 12 Điều 38 của Luật này;

b) Đất rừng phòng hộ; đất rừng đặc dụng; đất xây dựng trụ sở cơ quan, xây dựng công trình sự nghiệp; đất sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh; đất giao thông, thuỷ lợi; đất xây dựng các công trình văn hoá, y tế, giáo dục và đào tạo, thể dục thể thao và các công trình công cộng khác không nhằm mục đích kinh doanh; đất làm nghĩa trang, nghĩa địa;

c) Đất nông nghiệp do cộng đồng dân cư sử dụng;

d) Đất được Nhà nước giao có thu tiền sử dụng đất, nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà tiền sử dụng đất, tiền nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước;

đ) Đất thuê của Nhà nước;

e) Trường hợp không đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quy định tại Điều 50 của Luật này;

g) Đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích công ích của xã, phường, thị trấn.

2. Khi Nhà nước thu hồi đất, người bị thu hồi đất không được bồi thường về tài sản gắn liền với đất trong các trường hợp sau đây:

a) Tài sản gắn liền với đất được tạo ra tại khu vực đất bị thu hồi sau khi quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng đô thị, quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn đã được công bố mà không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép;

b) Tài sản gắn liền với đất được tạo ra trước khi có quyết định thu hồi đất mà trái với mục đích sử dụng đất đã được xác định trong quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất tại thời điểm xây dựng công trình đó;

c) Đất bị thu hồi thuộc các trường hợp quy định tại các khoản 4, 6, 7 và 10 Điều 38 của Luật này.

3. Người bị thu hồi đất quy định tại khoản 1 nhưng không thuộc khoản 2 Điều này được bồi thường thiệt hại về tài sản gắn liền với đất bị thu hồi.

4. Chính phủ quy định việc xử lý đối với tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, tài sản đã đầu tư trên đất trong trường hợp thu hồi đất quy định tại các khoản 2, 3, 5, 8, 9, 11 và 12 Điều 38 của Luật

Căn cứ theo quy định của Luật đất đai năm 2003, nếu việc thu hồi của UBND cấp Tỉnh phải được thực hiện theo đúng pháp luật và xét thấy bạn thuộc trường hợp không được thu hồi đất thì việc thu hồi đó là trái quy định của pháp luật. Đồng thời, 

Thứ ba, quy định về giải quyết khiếu nại về đất đai:

Theo quy định của Luật đất đai năm 2013, nhận thấy việc ra quyết định hành chính của cơ quan có thẩm quyền trái pháp luật hoặc người phải thực hiện quyết định thấy không thỏa đáng với quyết định đó thì sẽ được thực hiện như sau:

Điều 204. Giải quyết khiếu nại, khiếu kiện về đất đai

1. Người sử dụng đất, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến sử dụng đất có quyền khiếu nại, khởi kiện quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính về quản lý đất đai.

2. Trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính về đất đai thực hiện theo quy định của pháp luật về khiếu nại. Trình tự, thủ tục giải quyết khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính về đất đai thực hiện theo quy định của pháp luật về tố tụng hành chính.

Tóm lại, trên cơ sở phân tích ở trên nếu việc ra quyết định thu hồi đất và việc bồi thường, hỗ trợ không được thực hiện theo quy định của pháp luật đất đai tại thời điểm thu hồi đất được điều chỉnh bởi Luật đất đai năm 2003. Bên cạnh đó, theo mquy định của pháp luật đất đai trước khi thu hồi thì cơ quan có thẩm quyền phải ra quyết định và thông báo cho đối tương phải thực hiện quyết định đó. Nên việc UBND Tỉnh không ra quyết định hay không có thông báo trước là trái với trình tự, thủ tục thu hồi đất.
Nhận thấy, việc thu hồi đất của UBND Tỉnh là không phù hợp với quy định của pháp luật hoặc việc bồi thường, hỗ trợ không được thỏa đáng thì bạn có thể làm đơn khiếu nại theo quy định của Điều 204 Luât đất đai năm 2013.

Trên đây là ý kiến tư vấn của chúng tôi về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo.

Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/ và có sự vướng ngại, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách hàng.

Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài 24/7 gọi số:  hoặc gửi qua email: npttrinhlaw@gmail.com  để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Nptlawyer.com ;.

Rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng./.

Bộ phận Luật sư  đất đai.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *