Gia đình tôi được nhà nước cho phép ở phần đất trên địa bàn dân cư từ năm 2001 đến nay. Trước kia người dân ở rất thưa thớt, đất bỏ trống nhiều, càng ngày người ở càng đông nên nhà nước thành lập chợ. Nên tôi làm đơn được nhà nước cho phép ở phần đất diện tích khi chưa có xáng múc mới là: chiều ngang giáp mặt lộ là 6m và chiều dài đến mé sông vì nhà nước không cho cất nhà dưới đường dây điện đi qua nên tôi chia thành 2 nền để cất nhà hiện tôi đang ở trên phần đất đó từ năm 2001 đến nay.

Cũng như mọi gia đình khác nhà nước quy định ở thì trả tiền xáng múc mỗi mét là 100.000 đồng (cho tôi 6m thì đóng 600.000 đồng) ở được đến năm 2005 nhà nước thu tiền mặt bằng nhà tôi ở tính diện tích từ mặt lộ đến mé sông đóng 180.000 đồng đóng được 2 quý nhà nước không thu nữa.

Khi tôi chưa đến ở phần đất ấy là một cái ao trũng khá sâu, cây cối bịt bùng tôi phải ra công khai phá, bồi đấp rất nhiều lần mới có mặt bằng như ngày hôm nay. Nay nhà nước có chủ trương quy hoạch chợ chia thành 3 dãy nhà mời họp dân, phó chủ tịch huyện có nói ưu tiên cho những người ở trước, nhưng đến nay tôi được biết UBND xã lấy lại một nền ở phía trên và tôi phải dời nhà xuống mé sông nhưng không nêu rõ lí do lấy lại, nền ở phần dưới quy định chỉ cho 4m nhưng cấp cho tôi 8m ở phía dưới.

Như mọi gia đình khác tôi đều chấp hành tốt các chủ trương của nhà nước và địa phương đã đề ra. Bản thân tôi là con liệt sĩ, có rất nhiều hộ dân ở khu vực chợ phần đất có diện tích gấp đôi của tôi, có hộ có đến 2,3 nền thì họ vẫn được cấp lại nguyên vẹn.

Hôm nay nhà nước có chủ trương quy hoạch chợ buộc tôi phải di dời. Nền nhà trên vướng vào phần lộ mới tôi đã dở để làm lộ. Phần còn lại Uỷ Ban mời tôi rất nhiều lần nhưng tôi không đồng ý cho Uỷ ban lấy lại phần đất trên.

Phía Uỷ ban nên mời tôi ra làm việc đồng thời cũng mời ông chủ tịch trước đã ký cho tôi ở, ông nói cho tôi nền nhà không cho cất dưới đường dây điện và hiện nhà tôi đang ở cũng thực hiện như thế. Nguyên văn ký trong đơn như sau:

Xác nhận của UBND xã chúng tôi căn cứ vào đơn xin mượn đất cất nhà ở của ông ở ấp chúng tôi cho phép ở vị trí cập ranh ông ra 6m chúng tôi chỉ thu tiền xáng múc cho phép ở chỉ khi nào nhà nước càn thiết sử dụng ông phải di dời trả lại nhà nước không bồi thường, (thu tiền xáng múc 6m=600.000 đồng).

Nộp tiền xáng múc mới có quyền sử dụng.

Ngày 12/11/2001

TM.UBND XÃ

Đã ký”

Nay khu vực dân cư này nhà nước quy hoạch tôi cũng có nghe tin Uỷ ban cho hộ người làm việc ở trạm y tế 1 nền thì họ không ở lại mà sang bán kiếm lời. Tôi thắc mắc chủ tịch xã nói cấp cho người ta thì người ta được quyền sang bán, và phần đất của tôi cũng như thế tôi cũng nghe nói cấp cho người khác. Vậy thì việc làm của Ủy ban đối với tôi có hợp pháp không ? Nếu không thì tôi phải làm sao kính nhờ luật sư tư vấn giúp.

Tôi xin chân thành cảm ơn.

Người gửi: H.R

Câu hỏi được biên tập từ chuyên mục tư vấn pháp luật đất đai của Nptlawyer.com ;,

Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua điện thoại gọi:  –

Trả lời:

Cơ sở pháp lý:

 

Luật đất đai năm 2013 

Nội dung:

Thứ nhất, theo quy định củ pháp luật tại Điều 16 Luật đất đai 2013 quy định nhà nước thu hồi đất trong các trường hợp:

"1. Nhà nước quyết định thu hồi đất trong các trường hợp sau đây:

a) Thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng;

b) Thu hồi đất do vi phạm pháp luật về đất đai;

c) Thu hồi đất do chấm dứt việc sử dụng đất theo pháp luật, tự nguyện trả lại đất, có nguy cơ đe dọa tính mạng con người.

2. Nhà nước quyết định trưng dụng đất trong trường hợp thật cần thiết để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh hoặc trong tình trạng chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, phòng, chống thiên tai."

Thực hiện các dự án do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh chấp thuận mà phải thu hồi đất bao gồm (Dự án xây dựng trụ sở cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội; công trình di tích lịch sử – văn hóa, danh lam thắng cảnh được xếp hạng, công viên, quảng trường, tượng đài, bia tưởng niệm, công trình sự nghiệp công cấp địa phương; Dự án xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật của địa phương gồm giao thông, thủy lợi, cấp nước, thoát nước, điện lực, thông tin liên lạc, chiếu sáng đô thị; công trình thu gom, xử lý chất thải; Dự án xây dựng công trình phục vụ sinh hoạt chung của cộng đồng dân cư; dự án tái định cư, nhà ở cho sinh viên, nhà ở xã hội, nhà ở công vụ; xây dựng công trình của cơ sở tôn giáo; khu văn hóa, thể thao, vui chơi giải trí phục vụ công cộng; chợ; nghĩa trang, nghĩa địa, nhà tang lễ, nhà hỏa táng; Dự án xây dựng khu đô thị mới, khu dân cư nông thôn mới; chỉnh trang đô thị, khu dân cư nông thôn; cụm công nghiệp; khu sản xuất, chế biến nông sản, lâm sản, thủy sản, hải sản tập trung; dự án phát triển rừng phòng hộ, rừng đặc dụng; Dự án khai thác khoáng sản được cơ quan có thẩm quyền cấp phép, trừ trường hợp khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường, than bùn, khoáng sản tại các khu vực có khoáng sản phân tán, nhỏ lẻ và khai thác tận thu khoáng sản). (Điều 62, 62 Luật đất đai 2013)

Như anh trình bày ở trên chính quyền địa phương nơi anh cư trú có như cầu thu hồi đất đeer xây dựng chợ như vậy là phù hợp với quy định của pháp luật.

Thứ hai, hướng giải quyết đối với gia đình anh.

Gia đình anh nên hợp tắc với các cấp chính quyền để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp. Khi thực hiện thu hồi đất, nhà nước sẽ tiến hành bồi thường và hỗ trợ tái định cư.

+ Bồi thường về đất được quy định tại Điều 75 Luật đất đai năm 2013. Theo như trình bày gia đình anh có thể thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 75: "Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không phải là đất thuê trả tiền thuê đất hàng năm, có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (sau đây gọi chung là Giấy chứng nhận) hoặc có đủ điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của Luật này mà chưa được cấp, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 77 của Luật này; người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc đối tượng được sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam mà có Giấy chứng nhận hoặc có đủ điều kiện được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của Luật này mà chưa được cấp."

Theo quy định của pháp luật, điều kiện được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quy định tại Điều 100 Luật đất đai năm 2013:

"1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định mà có một trong các loại giấy tờ sau đây thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất và không phải nộp tiền sử dụng đất:

a) Những giấy tờ về quyền được sử dụng đất trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 do cơ quan có thẩm quyền cấp trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;

b) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong Sổ đăng ký ruộng đất, Sổ địa chính trước ngày 15 tháng 10 năm 1993;

c) Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất; giấy tờ giao nhà tình nghĩa, nhà tình thương gắn liền với đất;

d) Giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở gắn liền với đất ở trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là đã sử dụng trước ngày 15 tháng 10 năm 1993;

đ) Giấy tờ thanh lý, hóa giá nhà ở gắn liền với đất ở; giấy tờ mua nhà ở thuộc sở hữu nhà nước theo quy định của pháp luật;

e) Giấy tờ về quyền sử dụng đất do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho người sử dụng đất;

g) Các loại giấy tờ khác được xác lập trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 theo quy định của Chính phủ.

2. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có một trong các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này mà trên giấy tờ đó ghi tên người khác, kèm theo giấy tờ về việc chuyển quyền sử dụng đất có chữ ký của các bên có liên quan, nhưng đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành chưa thực hiện thủ tục chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật và đất đó không có tranh chấp thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.

3. Hộ gia đình, cá nhân được sử dụng đất theo bản án hoặc quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án, văn bản công nhận kết quả hòa giải thành, quyết định giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã được thi hành thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; trường hợp chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính thì phải thực hiện theo quy định của pháp luật.

4. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất được Nhà nước giao đất, cho thuê đất từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến ngày Luật này có hiệu lực thi hành mà chưa được cấp Giấy chứng nhận thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; trường hợp chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính thì phải thực hiện theo quy định của pháp luật.”

+ Bồi thường thiệt hại đối với tài sản gắn liền với đất và tri phí đầu tư vào đất.

+ Hỗ trợ tái định cư quy định tại Điều 83 Luật đất đai năm 2013: "1. Nguyên tắc hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất:

a) Người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất ngoài việc được bồi thường theo quy định của Luật này còn được Nhà nước xem xét hỗ trợ;

b) Việc hỗ trợ phải bảo đảm khách quan, công bằng, kịp thời, công khai và đúng quy định của pháp luật.

2. Các khoản hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất bao gồm:

a) Hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất;

b) Hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm đối với trường hợp thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp; thu hồi đất ở kết hợp kinh doanh dịch vụ của hộ gia đình, cá nhân mà phải di chuyển chỗ ở;

c) Hỗ trợ tái định cư đối với trường hợp thu hồi đất ở của hộ gia đình, cá nhân, người Việt Nam định cư ở nước ngoài mà phải di chuyển chỗ ở;

d) Hỗ trợ khác.

3. Chính phủ quy định chi tiết Điều này."

Trên đây là ý kiến tư vấn của chúng tôi về câu hỏi của quý khách hàng. Nội dung tư vẫn dựa trên trình bày của khách hàng và quy định của pháp luật. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo.

Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/ và có sự vướng ngại, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách hàng.

Chúng tôi hy vọng rằng, ý kiến tư vấn của chúng tôi sẽ giúp làm sáng tỏ các vấn đề mà bạn đang quan tâm. Trên từng vấn đề cụ thể, nếu bạn cần tham khảo thêm ý kiến chuyên môn của chúng tôi, xin hãy liên hệ trực tiếp với chúng tôi theo địa chỉ email npttrinhlaw@gmail.com hoặc qua Tổng đài tư vấn: .

Trân trọng./.

BỘ PHẬN TƯ VẤN LUẬT ĐẤT ĐAI.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *