Kính thưa Nptlawyer.com ;. Em có câu hỏi muốn được tư vấn: Gia đình em có 5 người con. Ba mẹ mất để lại đất. Và 2 đứa em giả chữ ký của em trong "giấy chia đất cho con" năm 1998, để làm giấy đăng ký quyền sử dụng đất. Sau này năm 2013 e mới biết sự việc này và gửi đơn yêu cầu ủy ban hủy quyết định giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

UBND trả lời do đất đó đã chuyển nhượng nên nhà nước không thu hồi nữa. Chỉ thu hồi khi có quyết định, bản án của tòa án. Khi gửi đơn ra tòa thì tòa trả lời: Luật thừa kế quy định thì tòa chỉ giải quyết tranh chấp thừa kế trong vòng 10 năm, đến nay đã hết thời hiệu. Vậy có xử lý hình sự đối với hành vi giả mạo giấy tờ hay không?. Việc cấp giấy này có đúng hay chưa, trách nhiệm thuộc về ai? Và tôi phải xử lý như thế nào để lấy lại đất?

Câu hỏi được biên tập từ Chuyên mục tư vấn Luật Đất đai – Nptlawyer.com ;

Luật sư tư vấn Luật Đất đai gọi:

 

Trả lời:

Chào bạn! Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi về cho chúng tôi. Đối với vấn đề của bạn chúng tôi xin được giải đáp như sau:

 

1. Cơ sở pháp lý

Bộ luật Dân sự số 33/2005/QH11 của Quốc hội 

Bộ Luật Hình sự 1999 

2. Nội dung tư vấn

Theo quy định tại Điều 645 Bộ luật Dân sự 2005 về thời hiệu khởi kiện về thừa kế thì:

"Điều 645. Thời hiệu khởi kiện về thừa kế  

Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là ba năm, kể từ thời điểm mở thừa kế."

Như vậy, theo quy định của Điều luật trên thì thời hiệu khởi kiện thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế. Theo đó, thời điểm mở thừa kế là thời điểm mà bố hoặc mẹ bạn mất (tính từ ngày người sau cùng mất). Như vậy, đối với yêu cầu này của bạn bị Tòa án bác bỏ với lý do như trên là đúng quy định của pháp luật.

Đối với hành vi giả mạo chữ ký của các em bạn để làm sổ đỏ: 

Theo quy định tại Điều 139 Bộ luật hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì:

"Điều 139. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đa bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ  sáu tháng đến ba năm."

Trong trường hợp của bạn, hai người em của bạn đã có hành vi giả mạo chữ ký của bạn để thực hiện thủ tục cấp sổ đỏ. Như vậy, đối với quyết định hành chính là việc cấp sổ đỏ của cơ quan có thẩm quyền, hai người này đã có hành vi gian dối, cụ thể là gian dối đối với bạn, và gian dối cơ quan chức năng vì mục đích chiếm đoạt tài sản. Và với khung hình phạt tối đa là phạt tù đến 3 năm thì đây thuộc tội phạm ít nghiêm trọng.

Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 2 Điều 23 Bộ luật Hình sự 1999 có quy định:

"2. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định như sau:

a) Năm năm đối với các tội phạm ít nghiêm trọng;

b) Mười năm đối với các tội phạm nghiêm trọng;

c) Mười lăm năm đối với các tội phạm rất nghiêm trọng;

d) Hai mươi năm đối với các tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

Theo như quy định trên, kể từ ngày 2 người em em thực hiện hành vi trên là vào năm 1998, đến nay đã được 17 năm, đã hết thời hạn để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tôi phạm ít nghiêm trọng này. Như vậy, vì sau khi nhận được thừa kế, nhưng bạn lại không có thỏa thuận với các em về phân chia di sản, cũng như để quá thời hiệu để xét xử vì vậy mà quyền lợi của bạn lúc này pháp luật không thể bảo vệ.

​Trên đây là ý kiến tư vấn của chúng tôi về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/ và có sự vướng ngại, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách hàng qua email npttrinhlaw@gmail.com  hoặc qua tổng đài . Chúng tôi sẳn sàng giải đáp.

Trân trọng ./.

Bộ phận Tư vấn Luật Hình sự

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *