Kính chào Diễn Đàn Luật; ! Vợ chồng tôi kết hôn từ năm 1999 đến nay đã có 2 con ( gái 14 tuổi, trai 5 tuổi) . Hiện nay hôn nhân đã mâu thuẫn tới mức trầm trọng, không thể hòa hợp lại được. lý do vợ tôi đã: 1. Vu cho tôi tội ngoại tình: (1. Ngoại tình với một cô bạn và có con riêng từ 6 năm nay, thực tế cô ta đã thuê người điều tra và họ đã khẳng định đó không phải con của tôi;

2. Ngoại tình với 1 cô ở cơ quan và một cô ở cơ quan khác ( thực tế không hề có việc này và tôi đã báo cáo cơ quan về việc này). 2. Vu cho tôi tội không chi tiền lương hàng tháng cho gia đình . Thực tế từ khi lập gia đình đến nay chúng tôi không hề thỏa thuận việc này mà việc chi tiêu tự cả hai vợ chồng đều mua sắm, riêng chi trả tiền điện, nước hàng tháng khoảng 3-3,5 triệu/tháng, tiền đóng học cho 2 con (cả tiền học thêm) 2,5 triệu /tháng, tiền xăng xe đưa con đi học (2 con tất cả đều do tôi đưa đón ) hằng ngày 2 triệu/ tháng 3. Vu cho tôi tội tranh chấp tiền xây nhà cho bố mẹ vợ và xây mồ mả quê ngoại ( nhà tôi toàn con gái), vợ tôi đã đưa tiền về xây nhà và xây mộ ở quê mà không hề nói với tôi. Thực tế tôi chưa bao giờ có ý kiến về việc này bởi tôi nghĩ bố mẹ 2 bên đều như nhau và thực tế bố mẹ vợ coi tôi như con đẻ và rất yêu quý tôi như tôi yêu quý họ và không muốn làm tổn thương họ. Tôi nêu ra ý này chỉ muốn nói cô ta đã có hành vi vu khống và quá coi thường tôi. Tôi mong  luật sư tư vấn cho tôi: tôi nên làm đơn kiện cô ta vu khống tôi hay làm đơn ly hôn. Nếu ly hôn tôi đề nghị con cái và tài sản chia đều theo pháp luật. 

Tôi xin chân thành cảm ơn !

Câu hỏi được biên tập từ chuyên mục tư vấn luật hôn nhân gia đình của Nptlawyer.com ;.

Luật sư tư vấn luật hôn nhân gia đình trực tuyến gọi :

Trả lời :

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Nptlawyer.com ;. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

 

Cơ sở pháp lý:

Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009.

Luật hôn nhân và gia đình số 52/2014/QH13 của Quốc hội.

Nội dung phân tích:

Dựa trên thông tin bạn cung cấp cho chúng tôi , chúng tôi tư vấn vấn đề của bạn như sau:

Thứ nhất, Gia đình bạn hiện đang chung sống với nhau không hạnh phúc, hôn nhân đã mâu thuẫn tới mức trầm trọng, không thể hòa hợp lại được. Và vợ bạn có đưa ra các lý do về những mâu thuẫn trên , bạn cho rằng vợ bạn vu khống cho bạn không có chính xác, bạn muốn khởi kiện vợ mình tội vu khống. 

Theo Khoản 1 Điều 122 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 quy định Tội vu khống : "  Người nào bịa đặt, loan truyền những điều biết rõ là bịa đặt nhằm xúc phạm danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác hoặc bịa đặt là người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm."Khi đó , một  hành vi sẽ bị coi là phạm tội vu khống khi có một trong các biểu hiện sau đây:

+ Tạo ra những thông tin không đúng sự thực và loan truyền các thông tin đó mặc dù biết đó là thông tin không đúng sự thực.

+ Tuy không tự đưa ra các thông tin không đúng sự thực nhưng có hành vi loan truyền thông tin sai do người khác tạo ra mặc dù biết rõ đó là những thông tin sai sự thực.

Trong trường hợp của vợ bạn,  vợ bạn có những hành vi nghi ngờ và vu khống bạn ngoại tình đồng thời có hành vi loan truyền các thông tin này cho rất nhiều người cùng biết ( Cơ quan bạn cũng biết điều này) khiến bạn bị xúc phạm đến danh dự, uy tín, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình thì vợ bạn có thể sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vu khống (Điều 122 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 ) Tuy nhiên, nếu vợ bạn luôn nghĩ rằng thông tin mình loan truyền là đúng sự thực thì hành vi không cấu thành tội phạm. Vậy , chúng tôi khuyên bạn nên bình tĩnh sáng suốt hơn trong việc này để giải quyết mâu thuẫn giữa hai vợ chồng êm đẹp, vì đối với hành vi của vợ bạn chưa nặng tới mức phải truy cứu  trách nhiệm hình sự.

Thứ hai , Nếu đời sống hôn nhân của bạn không thể hòa hợp được thì bạn và vợ mình cần có những buổi nói chuyện, cả hai bên nếu không thể chấp nhận được cuộc hôn nhân này thì cả vợ chồng cùng thỏa thuận ly hôn, cùng xác lập quyền và nghĩa vụ đối với các con cũng như tài sản ly hôn được thì thuộc trường hợp thuận tình ly hôn. Ngược lại , nếu vợ bạn không đồng ý ly hôn thì bạn có quyền đơn phương ly hôn  theo Khoản 1 Điều 51 Luật hôn nhân và gia đình số 52/2014/QH13 của Quốc hội. Quyền yêu cầu giải quyết ly hôn quy định : "  Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn." 

Mặt khác , Theo Khoản 1 Điều 56  Luật hôn nhân và gia đình số 52/2014/QH13 của Quốc hội  Ly hôn theo yêu cầu của một bên như sau: " Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hônnếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được."

Theo đó, bạn hoàn toàn có quyền yêu cầu Tòa án tiến hành giải quyết việc ly hôn cho mình theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Trong trường hợp vợ bạn không đồng ý việc ly hôn, bạn vẫn có thể tiến hành yêu cầu Tòa án giải quyết việc ly hôn theo qui định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình 2014 khi cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc, thấy không thể kéo dài.

*  Khi  ly hôn bạn muốn con cái và tài sản chia đều theo pháp luật . 

–  Theo Điều 81  Luật hôn nhân và gia đình số 52/2014/QH13 của Quốc hội. quy định Việc trông nom , chăm sóc , nuôi dưỡng , giáo dục con sau khy ly hôn như sau: 

" 1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.

2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.

3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con."

Hiện nay, vợ chồng bạn có có 2 con (gái 14 tuổi, trai 5 tuổi ). Xét theo quy định pháp luật nêu trên thì bé gái xem xét nguyện vọng của con sẽ muốn ở cùng bố hay mẹ và bé trai hiện 5 tuổi Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con.

– Đối với tài sản của vợ chồng bạn sẽ được chia theo nguyên tắc pháp luật tại Điều 59 Luật hôn nhân và gia đình số 52/2014/QH13 của Quốc hội Nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn như sau: 

"1. Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thì việc giải quyết tài sản do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc của hai vợ chồng, Tòa án giải quyết theo quy định tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này.

Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì việc giải quyết tài sản khi ly hôn được áp dụng theo thỏa thuận đó; nếu thỏa thuận không đầy đủ, rõ ràng thì áp dụng quy định tương ứng tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này để giải quyết.

2. Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:

a) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;

b) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;

c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;

d) Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.

3. Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch.

4. Tài sản riêng của vợ, chồng thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung theo quy định của Luật này.

Trong trường hợp có sự sáp nhập, trộn lẫn giữa tài sản riêng với tài sản chung mà vợ, chồng có yêu cầu về chia tài sản thì được thanh toán phần giá trị tài sản của mình đóng góp vào khối tài sản đó, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.

5. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

6. Tòa án nhân dân tối cao chủ trì phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp hướng dẫn Điều này."

Trên đây là ý kiến tư vấn của chúng tôi về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo.

Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/ và có sự vướng ngại, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách hàng qua email npttrinhlaw@gmail.com hoặc qua tổng đài  . Chúng tôi sẳn sàng giải đáp.

Trân trọng./.

BỘ PHẬN TƯ VẤN PHÁP LUẬT HÔN NHÂN.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *