Thực tế, việc tranh chấp liên quan đến đất đai xảy ra dưới rất nhiều kiểu, dạng và trong nhiều quan hệ pháp luật khác nhau. Hiểu thế nào là tranh chấp đất đai để khoanh vùng những loại tranh chấp phải qua thủ tục hòa giải tại cấp xã vẫn chưa có sự thống nhất. Từ đó, dẫn đến tình trạng“đánh nhầm hơn bỏ sót”- một trong những nguyên nhân làm ách tắc trong giải quyết tranh chấp đất đai hiện nay.

Vấn đề đặt ra

Luật Đất đai năm 2003 cũng như Nghị định số 181/2004/NĐ-CP của Chính phủ mới chỉ quy định tranh chấp đất đai phải qua hòa giải tại UBND cấp xã, nhưng chưa quy định cụ thể bắt buộc phải hòa giải đối với những tranh chấp đất đai thuộc loại nào. Căn cứ vào quan hệ pháp luật về tranh chấp có thể phân loại: tranh chấp về quan hệ pháp luật đất đai (tranh chấp ai là người có quyền sử dụng đất); tranh chấp về các hợp đồng dân sự như: chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho, cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất; tranh chấp tài sản chung (quyền sử dụng chung về đất đai); tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất. Vậy, theo quy định của Luật Đất đai, có phải tất cả các dạng tranh chấp trên đều phải thông qua việc hòa giải tại cấp xã hay không ?

Nhận thức chưa thống nhất

Qua hơn hai năm thực thi các quy định của Luật Đất đai 2003 về việc giải quyết tranh chấp đất đai, việc xác định loại tranh chấp nào bắt buộc phải qua hòa giải ở cấp xã vẫn chưa có sự thống nhất. Về vấn đề này, hiện nay đang tồn tại hai quan điểm trái ngược nhau. Quan điểm thứ nhất cho rằng, tất cả các tranh chấp đất đai, như tranh chấp ai là người có quyền sử dụng đất; tranh chấp hợp đồng chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho, cho thuê, cho thuê lại, quyền sử dụng đất, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất; tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất và tranh chấp tài sản chung là quyền sử dụng đất, đều bắt buộc phải qua hòa giải tại cấp xã thì đương sự mới có quyền khởi kiện đến Toà án.

>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua điện thoại gọi:  –

Đơn cử như vụ án tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất giữa ông Lê Hữu Đài với hai người chị gái là bà Lê Thị Tứ và bà Lê Thị Nguyệt ở huyện T. tỉnh Q. là một ví dụ điển hình. Sau khi xảy ra tranh chấp, do không được giải quyết kịp thời nên ông Đài đã có hành vi manh động là đập phá ngôi nhà thờ do bà Tứ và bà Nguyệt xây trên thửa đất đang tranh chấp thừa kế. Với hành vi đó, ông Đài đã bị Tòa án xử phạt 9 tháng tù về tội cố ý làm hư hỏng tài sản. Sau khi chấp hành xong hình phạt ông Đài tiếp tục làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết chia tài sản thừa kế, nhưng Tòa án cương quyết trả lại đơn khởi kiện, vì cho rằng tranh chấp chưa được hòa giải tại cấp xã. Hoặc như vụ án tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà D.T.H và chị N.T.L do TAND huyện Q. đang giải quyết: theo đơn khởi kiện, bà H yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng đất vô hiệu, buộc chị L trả lại đất cho bà vì cho rằng vợ chồng bà không ký vào hợp đồng mà do một người nào đó ký. Tranh chấp này chưa qua hòa giải tại cấp xã, mặc dù quan điểm của Tòa án là loại tranh chấp này không cần qua hòa giải nhưng để bảo đảm an toàn (khỏi bị hủy án) nên đã yêu cầu đương sự làm đơn yêu cầu UBND xã hòa giải mới tiếp tục giải quyết vụ án.

Ngược lại, quan điểm thứ hai cho rằng, chỉ có tranh chấp ai là người có quyền sử dụng đất mới phải qua hòa giải tại cấp xã, còn tranh chấp liên quan đến các hợp đồng mà quyền sử dụng đất chỉ là đối tượng của hợp đồng, tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất và tranh chấp tài sản chung là quyền sử dụng đất thì không bắt buộc phải qua hòa giải tại cấp xã. Quan điểm này hợp lý hơn, bởi các lý do sau:

Thứ nhất: Theo các văn bản pháp luật về đất đai, thường gặp hai thuật ngữ là “tranh chấp liên quan đến đất đai” và “tranh chấp đất đai”. Đây là hai thuật ngữ có nội hàm khác nhau. Tranh chấp liên quan đến đất đai có phạm vi rộng hơn, bao gồm tranh chấp về các quan hệ hợp đồng, quan hệ sở hữu, quan hệ thừa kế mà quyền sử dụng đất là loại tài sản thuộc đối tượng của quan hệ pháp luật đó. Còn tranh chấp đất đai có phạm vi hẹp hơn, là   tranh chấp ai có quyền sử dụng đất. Khoản 26 Điều 4 Luật Đất đai giải thích từ ngữ “Tranh chấp đất đai là tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai”. Điều 25 Bộ luật Tố tụng dân sự cũng phân định rất rõ giữa tranh chấp về quyền sử dụng đất và các loại tranh chấp về hợp đồng dân sự, tranh chấp về quyền sở hữu tài sản, tranh chấp về thừa kế tài sản. Trở lại quy định của Luật Đất đai, tại các Điều 135 và 136 dùng thuật ngữ “tranh chấp đất đai” chứ không dùng thuật ngữ “tranh chấp liên quan đến đất đai”.

Thứ hai: Các quy định của pháp luật về quan hệ hợp đồng, quan hệ thừa kế và quan hệ sở hữu rất phức tạp. Do đó, với trình độ của cán bộ cấp xã, khó có thể xác định được một hợp đồng có hiệu lực hay hợp đồng vô hiệu; khó  xác định diện, hàng thừa kế, quan hệ tài sản chung… Mặt khác, mục đích của việc hòa giải là sự thỏa thuận của các đương sự. Vậy khi hòa giải đương sự thỏa thuận để thực hiện một hợp đồng lẽ ra phải bị tuyên bố vô hiệu, hoặc thỏa thuận được việc chia thừa kế, nhưng bỏ sót những người lẽ ra phải được hưởng thừa kế, xác định không đúng di sản thừa kế… thì cán bộ cấp xã có khả năng nhận biết không?… Nếu giao các loại tranh chấp này cho UBND cấp xã hòa giải rất có thể sẽ vi phạm pháp luật.

Nghiên cứu các quy định của pháp luật về đất đai và thực trạng giải quyết tranh chấp đất đai trong hơn hai năm qua có thể thấy, nguyên nhân của việc ách tắc trong công tác giải quyết tranh chấp đất đai ở các địa phương từ khi thi hành Luật Đất đai 2003, chủ yếu do nhận thức của những người làm công tác pháp luật quá máy móc, không đúng với tinh thần quy định của pháp luật. Điều đó đã làm giảm lòng tin của nhân dân đối với các cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai. Để có nhận thức thống nhất trong việc giải quyết tranh chấp đất đai, rất cần có văn bản hướng dẫn về vấn đề này.

SOURCE: BÁO NGƯỜI ĐẠI BIỂU NHÂN DÂN – PHẠM THÁI QUÍ

Trích dẫn từ:http://nguoidaibieu.com.vn

(MKLAW FIRM: Bài viết được đăng tải nhằm mục đích giáo dục, phổ biến, tuyên truyền pháp luật và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước không nhằm mục đích thương mại. Thông tin nêu trên chỉ có giá trị tham khảo vì vậy Quý khách khi đọc thông tin này cần tham khảo ý kiến luật sư, chuyên gia tư vấn trước khi áp dụng vào thực tế.)

—————————————————

THAM KHẢO DỊCH VỤ TƯ VẤN LIÊN QUAN:

1. Tư vấn pháp luật lao động;

3. Tư vấn pháp luật lĩnh vực dân sự;

4. Tư vấn luật hành chính Việt Nam;

2. Luật sư riêng cho doanh nghiệp;

5. Dịch vụ luật sư tư vấn giải quyết tranh chấp tại tòa án.

6. Luật sư tư vấn giải quyết tranh chấp hôn nhân gia đình;

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *