Kính thưa luật sư, cho tôi hỏi nếu một nam và một nữ sống chung với nhau như vợ chồng từ năm 2008 đến 2013, có một con chung 5 tuổi, có tài sản chung. Đến 2014 thì người nữ bỏ lấy chồng khác, người nam muốn đòi con về để nuôi thì phải làm thủ tục gì để tòa án giải quyết ?

Trân trọng cảm ơn.

Người gửi: Hải.

Câu hỏi được biên tập từ chuyên mục Hỏi đáp pháp luật trực tuyến của Nptlawyer.com ;.

 

Luật sư tư vấn pháp luật hôn nhân gia đình trực tuyến qua tổng đài 24/7.

Trả lời:

Chào bạn! Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi tới chuyên mục hỏi đáp pháp luật của Nptlawyer.com ;. Vấn đề của bạn chúng tôi xin được tư vấn như sau:

Cơ sở pháp lý:

– Luật Hôn nhân và gia đình 2014;

– Bộ luật tố tụng dân sự 2004 sửa đổi, bổ sung 2011;

– Nghị định 158/2005/NĐ-CP về đăng ký và quản lý hộ tịch.

Giải thích nội dung:

Việc giải quyết vấn đề nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn được đã được quy định tại Điều 14 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 như sau:

Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Quyền, nghĩa vụ đối với con, tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên được giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật này.

Theo đó, quyền, nghĩa vụ của cha mẹ đối với con trong trường hợp này được quy định tại Điều 15 Luật Hôn nhân gia đình:

Quyền, nghĩa vụ giữa nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng và con được giải quyết theo quy định của Luật này về quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con.

Như vậy, mặc dù hai bên trong trường hợp của bạn không đăng ký kết hôn nhưng quyền và nghĩa vụ đối với con chung không có khác biệt với các trường hợp có đăng ký kết hôn. Do đó, nếu người cha trong trường hợp này đã có các căn cứ, giấy tờ hợp pháp chứng minh mình là cha cháu bé (đã làm thủ tục nhận con khi khai sinh cho cháu bé, giấy khai sinh của cháu bé có sự hiện diện của người cha) thì có thể yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con theo quy định tại Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014:

1. Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều này, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

2. Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con được giải quyết khi có một trong các căn cứ sau đây:

a) Cha, mẹ có thỏa thuận về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phù hợp với lợi ích của con;

b) Người trực tiếp nuôi con không còn đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

3. Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phải xem xét nguyện vọng của con từ đủ 07 tuổi trở lên.

4. Trong trường hợp xét thấy cả cha và mẹ đều không đủ điều kiện trực tiếp nuôi con thì Tòa án quyết định giao con cho người giám hộ theo quy định của Bộ luật dân sự.

5. Trong trường hợp có căn cứ theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều này thì trên cơ sở lợi ích của con, cá nhân, cơ quan, tổ chức sau có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con:

a) Người thân thích;

b) Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình;

c) Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em;

d) Hội liên hiệp phụ nữ.

Trong trường hợp người cha chưa làm thủ tục nhận con và không có tên trong giấy khai sinh của cháu bé thì cần làm thủ tục nhận con (tham khảo thủ tục cha nhận con tại đây). Việc cha nhận con cần có sự đồng ý của người mẹ; vì vậy nếu người mẹ không đồng ý cho người cha nhận con thì người cha có thể yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp việc xác định cha cho chon theo thủ tục tố tụng dân sự (Khoản 4 Điều 27 Bộ luật tố tụng dân sự 2004). Sau khi có quyết định của Tòa án xác định là cha của cháu bé, người chồng có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con theo quy định của Luật tố tụng dân sự và Luật hôn nhân và gia đình.

Trân trọng./.

BỘ PHẬN TƯ VẤN LUẬT – Nptlawyer.com ;

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *