Thưa luật sư, Tôi muốn hỏi: Ông Trịnh Văn Mạnh và bà Đỗ Thị Dịu có 03 người con là Trịnh Văn Nam, Trịnh Thị Bống và Trịnh Thị Cờ. Năm 1970, ông Trịnh Văn Nam lấy bà Phùng Thị Hò về ở chung cùng cha mẹ. Năm 1972, 1977, bà Bống và bà Cờ lần lượt lấy chồng và về sống cùng gia đình nhà chồng. Năm 1989, ông Mạnh và bà Dịu chết không để lại di chúc. Năm 1992, UBND huyện K cấp cho vợ chồng ông Nam và bà Hò Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với toàn bộ phần đất thừa hưởng từ ông Mạnh, bà Dịu để lại
Năm 2000 ông Nam chết và đến đầu năm 2006, bà Bống và bà Cờ đề nghị bà Hò chia cho họ một phần đất của cha mẹ để lại. Bà Hò không đồng ý và đưa Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên đó ghi tên bà và ông Nam ra để khẳng định rằng tài sản này không có phần của bà Bống và bà Cờ.
Không thể tự giải quyết trong nội bộ gia đình với bà Hò, bà Cờ và bà Bống làm đơn đề nghị Chủ tịch UBND xã H, nơi có đất giải quyết. Hai bà yêu cầu xã huỷ bỏ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp và chia đất cho họ theo đúng quy định của pháp luật về thừa kế. Ngoài ra, bà Bống còn đề nghị xã cung cấp cho bà các tài liệu về thửa đất lưu trong hồ sơ địa chính của xã để nếu vụ việc không được giải quyết thỏa đáng thì bà sẽ ủy quyền cho con trai là Hải khởi kiện ra Tòa án. Chủ tịch UBND xã H sẽ giải quyết như thế nào?
Trả lời:
UBND cấp xã không có quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cũng như huỷ bỏ quyết định cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Vì vậy, khi bà Hò, bà Cờ, bà Bống tranh chấp về quyền sử dụng đất liên quan đến việc thừa kế không thể hoà giải mà có đơn yêu cầu UBND xã H giải quyết, thì Uỷ ban chỉ có thể tiến hành hoà giải. Nếu hoà giải không thành thì hướng dẫn đương sự tới Toà án để được giải quyết bằng một vụ án chia thừa kế theo thủ tục tố tụng dân sự.
Với các yêu cầu của bà Bống và bà Cờ, Chủ tịch UBND xã cần giải quyết như sau:
Thứ nhất, trong trường hợp này, Chủ tịch UBND xã H không có thẩm quyền để huỷ bỏ giá trị của Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên cần giải thích cho đương sự hiểu là không thể thụ lý giải quyết yêu cầu của bà Cờ, bà Bống về việc huỷ bỏ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã được cấp cho ông Nam và bà Hò;
Thứ hai, tranh chấp của bà Bống, bà Cờ với bà Hò về quyền sử dụng đất là tranh chấp về quyền thừa kế. Hơn nữa, vụ việc này có tính phức tạp vì liên quan đến việc xác định các chứng cứ về nguồn gốc quyền sử dụng đất từ cha mẹ của các đương sự. UBND không có thẩm quyền giải quyết vì đây là thẩm quyền của Toà án, và phải giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự theo quy định tại khoản 1 Điều 136 Luật Đất đai năm 2003. Do đó, yêu cầu của bà Bống về việc đề nghị UBND xã giải quyết thoả đáng vụ việc không thể chấp nhận được. Thẩm quyền của UBND xã trong vụ việc này chỉ là thực hiện việc hoà giải giữa các bên tranh chấp theo quy định tại khoản 2 Điều 135 Luật Đất đai năm 2003.
Khi thực hiện việc hoà giải có thể xảy ra hai khả năng sau đây:
– Trường hợp qua hoà giải các bên thoả thuận được việc phân chia di sản thừa kế và đề nghị UBND xã H xác nhận thì Uỷ ban chứng thực thoả thuận phân chia di sản của họ và hướng dẫn đương sự làm thủ tục để đăng ký biến động quyền sử dụng đất, cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo thoả thuận đã được lập.
– Trường hợp các bên không thoả thuận được với nhau, UBND xã H hoà giải không thành và bà Cờ, bà Bống đề nghị UBND xã chứng thực văn bản uỷ quyền cho anh Hải (con trai bà Cờ) đại diện khởi kiện trước Toà án thì UBND xã thực hiện yêu cầu này của đương sự theo quy định về chứng thực uỷ quyền theo quy định tại nghị định số 79/2007/NĐ-CP ngày 18/5/2007 về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký
Thứ ba, về yêu cầu của bà Cờ đề nghị UBND xã cung cấp các tài liệu trong hồ sơ địa chính làm chứng cứ phục vụ việc khởi kiện tại Toà án. Điều 7 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 quy định trách nhiệm cung cấp chứng cứ của các cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền đã nêu rõ: cá nhân, cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm cung cấp đầy đủ cho đương sự, Toà án, chứng cứ trong vụ án mà cá nhân, cơ quan, tổ chức đó đang lưu giữ, quản lý khi có yêu cầu của đương sự, Toà án; trong trường hợp không cung cấp được thì phải thông báo bằng văn bản cho đương sự, Toà án biết và nêu rõ lý do của việc không cung cấp được chứng cứ. Vì vậy, khi bà Cờ hoặc người được bà uỷ quyền thực hiện việc khởi kiện đề nghị UBND xã cung cấp các tài liệu về tình trạng sử dụng đất trong hồ sơ địa chính lưu tại UBND xã thì UBND xã có trách nhiệm phải cung cấp mà không được từ chối.
Các văn bản liên quan:
Luật Đất đai số 13/2003/QH11
Nghị định 79/2007/NĐ-CP Về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký
Trân trọng./.
BAN BIÊN TẬP – Nptlawyer.com ;
—————————————————–
THAM KHẢO MỘT SỐ DỊCH VỤ TƯ VẤN LUẬT:
1. Tư vấn tách thửa đất đai;
2. Tư vấn pháp luật đất đai ;
3. Tư vấn cấp lại sổ đỏ bị mất ;
4. Tư vấn mua bán, chuyển nhượng đất đai ;
5. Tư vấn đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ;
6. Tư vấn cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do trúng đấu giá ;