Thưa Luật sư, tôi có câu hỏi muốn được giải đáp: Mẹ tôi là bà T cưới chồng 2 là ông H.T từ năm 2009. Trước đó, cả hai đều đã từng kết hôn và con riêng: – Ông H.T có 4 con riêng và 2 người đã có gia đình, mẹ già 94 tuổi. – Mẹ tôi có 2 con riêng, tôi và em gái, cả hai cháu đều ở riêng. Mẹ tôi về làm dâu tuy chỉ có 6 năm nhưng đã lo chu tất cho mẹ, chồng, con, cháu ngoại ông Thất.

Nhưng đến sau khi về làm vợ, Mẹ tôi mới biết được ông t đã nhiều lần mạo danh bác sĩ để lừa gạt dân lành lấy tiền ăn chơi trác táng. Điều này khiến Mẹ tôi bất bình trước việc làm thất đức của ông , Mẹ tôi khuyên ngăn ông đã không nghe mà còn đánh đập, chửi bới tôi và con tôi nhiều lần. Chưa dừng lại ở đó, ông còn dụ dỗ lấy tiền tiết kiệm mà Mẹ tôi đã tích góp được trước khi cưới ông, đưa cho ông ăn nhậu. Mẹ tôi không đưa sẽ chịu đựng những đòn roi, đánh đập sỉ báng từ ông H.T, để giữ gìn hạnh phúc gia đình Mẹ tôi đã nhẫn nhịn và kết quả là lúc ông buồn thì cho tôi ăn tát, lúc vui thì nắm tóc vày đầu. Vào tháng 4/2015 ông H.T cầm xẻng tấn công Mẹ tôi và tôi. Khi nắm được tóc Mẹ tôi thì ông H.T vừa đấm vào mạng sườn vừa mạt sát Mẹ tôi. Nhờ sự giúp đỡ của chú H công an xã H.A mà tôi và mẹ tôi có thể chạy thoát. Sau khi được hòa giải ông vẫn không từ bỏ việc hành hung mẹ con tôi làm thú vui. Vào ngày 12/10/2015 ông ta đã vô cớ tìm cách hành hạ, truy bức để lấy cớ đánh đập mẹ và em gái tôi. Ông đánh đập mẹ và em gái tôi từ trên tầng 2 xuống tầng một, không những thế, ông còn xô cả hai mẹ con xuống bùn kèm theo những lời lăng mạ và chửi rủa hết sức khó nghe. Để bảo toàn tính mạng, mẹ và em gái phải bỏ chạy tới trường mẫu giáo gần lánh nạn. Trên là tất cả sự việc đều xảy ra dưới sự chứng kiến của chú H, bà M, vợ chồng chú L, tại tổ 1, tổ dân phố 1, T.C, phường H.A, còn những việc ông đánh đập mẹ tôi lúc có hai người, đánh mẹ tôi dọc đường và tại nhà chị gái mẹ tôi. Hiện tại, mẹ tôi đã chạy trốn khỏi nhà và sống lang bạt nơi đây mai đó để tránh sự truy bức của ông H.T từ ngày đó. Với bản tính hung hãn côn đồ, ông H.T vẫn không ngừng buông tha, ông vẫn nhắn tin đe dọa, hết lần này đến lần khác rằng ông sẽ thuê xã hội đen đánh đập mẹ và em gái tôi, gặp đâu đánh đó. Ông còn tuyên bố thằng thừng “công an cảnh sát cũng không thể bảo vệ nổi cho hai mẹ con chúng tôi, ông sẽ truy sát suốt đời, trốn một lần nhưng trốn hết cả đời được không?”. Tất cả chưa dùng lại ở đó, ông H.T còn nhắn tin đe dọa, phỉ báng bản thân mẹ tôi lẫn nhân thân, họ hàng nhà tôi qua hai số điện thoại. Vậy – Nếu mẹ tôi muốn ly hôn thì cần phải làm những thủ tục gì, gửi đến đâu? – Vì những lần đánh đập đó không có thương tích trên 11% nên tôi không truy cứu hình sự được, nhưng hiện tại mẹ tôi bị hoảng loạn tinh thần vậy đây có được xem là 1 thương tích không? Nếu phải thì tôi cần phải đưa mẹ đi dám định ở đâu? xác nhận kết quả gì? – Tôi cần viết những đơn gì để bảo vệ tính mạng mẹ và em gái tôi, gửi đến đâu, cơ quan nào? – Còn về tài sản mẹ tôi mua cho anh em tôi mỗi người 1 mảnh đất, đứng tên tôi và em gái tôi, và xây nhà trên mảnh đất em gái tôi. Vậy tôi cần chứng minh gì để chứng tỏ đó là tài sản của em gái tôi chứ không phải tài sản chung của mẹ và ông ấy(tiền xây nhà cho em gái tôi được mẹ tôi bán đất từ quê vào xây.) – Khi ly hôn, tòa sẽ gọi lên hòa giải nhiều lần, vậy có cách nào giúp việc thi hành thủ tục ly hôn mà không qua việc hòa giải không?

Tôi xin chân thành cảm ơn !

Câu hỏi được biên tập từ chuyên mục tư vấn pháp luật hôn nhân và gia đình.

Luật sư tư vấn pháp luật hôn nhân và gia đình trực tuyến gọi:

Trả lời:

 

Chào bạn, cảm ơn bạn đã gửi thắc mắc đến Nptlawyer.com ;, căn cứ vào những thông tin bạn cung cấp xin được tư vấn cho bạn như sau:

Căn cứ pháp lý

Bộ luật hình sự 1999  sửa đổi bổ sung 2009

Luật hôn nhân và gia đình 2014

Nghị định 167/2013 quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực trật tự an ninh, xã hội

Nội dung tư vấn

Thứ nhất là thủ tục xin ly hôn: Thủ tục ly hôn bao gồm:

– Đơn xin ly hôn;

– Bản chính Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn;

– Bản sao Hộ khẩu thường trú, tạm trú của vợ và chồng

– Bản sao Chứng minh thư nhân dân hoặc bản sao hộ chiếu của vợ và chồng

Tình trạng hôn nhân đã trở nên trầm trọng;Đời sống chung không thể kéo dài;Mục đích hôn nhân không đạt được.

– Các giấy tờ chứng minh về tài sản: Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất, sở hữu nhà ở (nếu có)…

– Bản sao giấy khai sinh của con.

Thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Tòa án có thẩm quyền giải quyết việc ly hôn của mẹ bạn là tòa án nhân dân cấp huyện nơi mẹ bạn đang cư trú.

Thứ hai là giám định thương tích.

Với trường hợp của ạn, theo như các quy định của pháp luật hiện hành thì bạn không thể tự đưa mẹ bạn đi giám định thương tật được. Do đó, nếu muốn được đưa mẹ bạn đi giám định thương tật, bạn có thể làm đơn yêu cầu khởi tố về hành vi cố ý gây thương tích của người đã đánh mẹ bạn rồi trình lên cơ quan điều tra ( tức cơ quan công an). Sau đó, Cơ quan Công an sẽ tiến hành các bước tố tụng  và trưng cầu giám định tỷ lệ thương tật của vợ mẹ bạn.  Dựa trên biên bản kết quả xác định tỷ lệ thương tật, nếu đủ các điều kiện BLHS quy định thì sẽ là căn cứ để khởi tố vụ án hình sự, kèm theo là việc xem xét trách nhiệm dân sự. 

–  Nếu tỷ lệ thương tật của mẹ bạn nhỏ hơn 11% và không rơi vào các trường hợp pháp luật quy định thuộc luật hình sự thì ông H.T có thể bị xử lý vì hành vi bạo lực gia đình theo Nghị định 167/2013/ NĐ – CP quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực an ninh trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình.

Điều 49. Hành vi xâm hại sức khỏe thành viên gia đình

1. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 1.500.000 đồng đối với hành vi đánh đập gây thương tích cho thành viên gia đình.

2. Phạt tiền từ 1.500.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

a) Sử dụng các công cụ, phương tiện hoặc các vật dụng khác gây thương tích cho thành viên gia đình;

b) Không kịp thời đưa nạn nhân đi cấp cứu điều trị trong trường hợp nạn nhân cần được cấp cứu kịp thời hoặc không chăm sóc nạn nhân trong thời gian nạn nhân điều trị chấn thương do hành vi bạo lực gia đình, trừ trường hợp nạn nhân từ chối.

3. Biện pháp khắc phục hậu quả:

Buộc xin lỗi công khai khi nạn nhân có yêu cầu đối với các hành vi quy định tại Khoản 1 và Khoản 2 Điều này.

– nếu tỉ lệ thương tích của bạn trên 11% hoặc dưới 11%  nhưng thuộc các trường  hợp theo quy đinh của Điều 104 Bộ luật hình sự thì ông H.Tcó thể bị truy cứu hình sự vì tội cố ý gây thương tích.
 
Điều 104. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác

1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:

A) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người;

B) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;

C) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người;

D) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;

Đ) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;

E) Có tổ chức;

G) Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;

H) Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê;

I) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;

K) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.

2. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến 30%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

3. Phạm tội gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người hoặc từ 31% đến 60%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm.

4. Phạm tội dẫn đến chết nhiều người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân.

Trong trường hợp của bạn, ông H. T đã nhiều lần đánh đập đối với mẹ bạn, gây tổn hại đến sức khỏe của mẹ bạn nên ông H.T sẽ bị truy cứu hình sự vì tội cố ý gây thương tích. Để bảo vệ mẹ bạn, em gái bạn, nạn nên làm đơn tố cáo gửi đến cơ quan Công an có thẩm quyền giải quyết.

Thứ ba là việc chứng mình tài sản.

Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 có quy định về tài sản riêng của vợ, chồng trong các điều khoản sau:

– Khoản 1 Điều 43: "Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại các điều 38, 39 và 40 của Luậtnày; tài sảnphục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng."

– Khoản 1 Điều 44:"  Vợ, chồng có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng của mình; nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào tài sản chung."

 Em gái bạn đã có sổ đỏ, cho nên là chủ của mảnh đất đó. Còn về ngôi nhà được xây dựng trên mảnh đất này, bạn cần thu thập thông tin để chứng mình ngôi nhà được xây dựng trước thời kì hôn nhân, tức là tài sản không được hình thành trong thời kì hôn nhân hoặc có chứng cứ chứng minh hoàn toàn do công sức của mẹ con bạn bỏ ra mặc dù trong thời kì hôn nhân của mẹ bạn và chứng minh được mẹ bạn không có thỏa thuận nhập vào khối tài sản chung.

Thứ tư là việc ly hôn không qua hòa giải.

Theo quy định tại Điều 52 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì: Nhà nước và xã hội khuyến khích việc hòa giải ở cơ sở khi vợ, chồng có yêu cầu ly hôn. Việc hòa giải được thực hiện theo quy định của pháp luật về hòa giải ở cơ sở. Cơ sở ở đây được hiểu là thôn, làng, ấp, bản, phum, sóc, tổ dân phố, cụm dân cư khác như xã, phường, thị trấn. Theo quy định này, thì hòa giải ở cơ sở là giai đoạn không bắt buộc, có áp dụng thủ tục này không là theo sự thỏa thuận của các bên trong tranh chấp; bởi mục đích của hòa giải cơ sở được thực hiện nhằm giúp các bên tự giải quyết các mâu thuẫn, vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ; giữ gìn, củng cố tình đoàn kết trong nội bộ nhân dân; phát huy đạo lý, truyền thống tốt đẹp trong gia đình,… Như vậy, muốn ly hôn không qua thủ tục hòa giải thì mẹ bạn và ông H.T cần có thỏa thuận thống nhất là không cần qua thủ tục hòa giải để ly hôn.

Trên đây là ý kiến tư vấn của chúng tôi về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo.

Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/ và có sự vướng ngại, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách hàng.

Trân trọng./.
Bộ phận tư vấn pháp luật hôn nhân và gia đình.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Kính gửi Diễn Đàn Luật;, mong luật sư tư vấn hộ tôi trường hợp này: Tôi và vợ tôi lấy nhau từ 9/2010.Hiện tại có 2 con nhỏ, một cháu hơn 4 tuổi và một cháu hơn 2 tuổi.Từ 3/2015 chúng tôi không sống chung cùng nhau nữa. Do chúng tôi không có điểm chung trong cuộc sống, vợi tôi không tôn trọng ai cả. Tôi hay nhún nhường nên cô ấy được đằng chân lân đằng đầu,ăn nói hỗn láo, không chăm lo công việc gia đình.

Tôi quê ở Thái Bình nhưng ra Hải Phòng học và làm việc tại đó. Tháng 6/2010 tôi có mua nhà chung cư và đến tháng 9/2010 tôi mới lập gia đình. Trước khi mua nhà tài sản là của tôi.Nhưng lúc đó tôi chưa làm sổ đỏ,một năm sau khi lấy vợ tôi mới sang tên sổ đỏ.Lúc đó tôi ghi tên cả hai vợ chồng.Vợ tôi không có việc làm chỉ ở nhà trông con.Toàn bộ kinh tế do tôi trang trải. Đến 3/2015 chúng tôi không ở cùng nhau nữa.Vợ con tôi ở nhà ngoại,tôi về quê.Nhưng tất cả những giấy tờ liên quan như giấy tờ nhà,giấy ĐKKH, Giấy KS của các con vợ tôi giữ hết. Bây giờ tôi muốn ly hôn với vợ tôi thì làm cách nào để có lợi cho tôi nhất. Vì vợ tôi đang giữ giấy tờ nhà,và đang ở với con tôi. Kinh tế tôi khá giả.Tôi có thể chu cấp và nuôi dậy con tôi. Tôi có lấy lại được nhà và quyền nuôi hai con khi con tôi trên 3 tuổi không?

Mong luật sư cho tôi lời khuyên! Tôi xin chân thành cảm ơn!

Câu hỏi được biên tập từ chuyên mục tư vấn luật hôn nhân của Nptlawyer.com ;.

Luật sư tư vấn pháp luật hôn nhân gọi

Trả lời:

1. Căn cứ pháp lý:

 

Luật hôn nhân và gia đình 2014

2. Nội dung tư vấn:

Luật hôn nhân và gia đình có quy định như sau về vấn đề ly hôn theo yêu cầu của một bên:

Điều 56. Ly hôn theo yêu cầu của một bên

1. Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.

2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn.

3. Trong trường hợp có yêu cầu ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Luật này thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc chồng, vợ có hành vi bạo lực gia đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của người kia

Như vậy vợ anh đã có vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ làm vợ khi không chăm lo, quan tâm đến gia đình, anh có thể Tòa án giải quyết cho vấn đề ly hôn.

Về vấn đề chia tài sản sau khi ly hôn và quyền chăm sóc con thì luật quy định như sau:

Điều 59. Nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn

1. Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thì việc giải quyết tài sản do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc của hai vợ chồng, Tòa án giải quyết theo quy định tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này.

Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì việc giải quyết tài sản khi ly hôn được áp dụng theo thỏa thuận đó; nếu thỏa thuận không đầy đủ, rõ ràng thì áp dụng quy định tương ứng tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này để giải quyết.

2. Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:

a) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;

b) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;

c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;

d) Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.

3. Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch.

4. Tài sản riêng của vợ, chồng thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung theo quy định của Luật này.

Trong trường hợp có sự sáp nhập, trộn lẫn giữa tài sản riêng với tài sản chung mà vợ, chồng có yêu cầu về chia tài sản thì được thanh toán phần giá trị tài sản của mình đóng góp vào khối tài sản đó, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.

5. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

6. Tòa án nhân dân tối cao chủ trì phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp hướng dẫn Điều này.

Tuy ngôi nhà anh mua có trước hôn nhân nhưng trong quá trình chung sống anh và vợ anh đã ghi tên cùng nhau vào sổ đỏ, tức là anh đã đồng ý nhập tài sản riêng vào tài sản chung. Do anh là người có công lớn hơn trong việc hình thành tài sản chung đó nên anh có thể thỏa thuận với vợ mình về phần đóng góp hoặc yêu cầu Tòa án phân chia tài sản.

Điều 81. Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn

1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.

2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.

3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con

Điều 84. Thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn

1. Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều này, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

2. Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con được giải quyết khi có một trong các căn cứ sau đây:

a) Cha, mẹ có thỏa thuận về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phù hợp với lợi ích của con;

b) Người trực tiếp nuôi con không còn đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

3. Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phải xem xét nguyện vọng của con từ đủ 07 tuổi trở lên.

4. Trong trường hợp xét thấy cả cha và mẹ đều không đủ điều kiện trực tiếp nuôi con thì Tòa án quyết định giao con cho người giám hộ theo quy định của Bộ luật dân sự.

5. Trong trường hợp có căn cứ theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều này thì trên cơ sở lợi ích của con, cá nhân, cơ quan, tổ chức sau có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con:

a) Người thân thích;

b) Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình;

c) Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em;

d) Hội liên hiệp phụ nữ.

Hiện con anh, một cháu hơn 4 tuổi và một cháu hơn 2 tuổi nên theo quy định của luật, đối với cháu 2 tuổi sẽ được vợ anh trực tiếp nuôi dưỡng nếu không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì anh sẽ có quyền nuôi con. Về việc anh muốn lấy lại quyền nuôi hai con khi con trên 3 tuổi thì cần có sự thảo thuận của vợ anh về việc thay đổi người trực tiếp trông nom hoặc vợ anh không đủ điều kiện tiếp nuôi con.

Trên đây là ý kiến tư vấn của chúng tôi về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo.

Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/ và có sự vướng ngại, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách hàng.

Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài 24/7 gọi số:  hoặc gửi qua email: npttrinhlaw@gmail.com  để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Nptlawyer.com ;.

Rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng./.                                  

Bộ phận Luật sư Tư vấn pháp luật hôn nhân. 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *